Tìm hiểu đặc điểm của một số cấu trúc định danh mở rộng trong ngôn ngữ Bác Hồ
Ví dụ:
Các nước anh em(tr. 154, t.7)
Các nước xã hội chủ nghĩa anh em(tr 642, t.7)
Các nước anh em tiến bộ(tr. 15, t.9)
Nhân dân lao động các nước anh em(tr. 625, t.7)
Các đảng anh em(tr. 786, t7)
Các đảng phái anh em dân chủ…(tr 517, t.6)
Trong hai cấu trúc Các nước anh em, Các nước xã hội chủ nghĩa anh emthì Các nước anh emchưa xác định một nước hay một phe phái cụ thể nào, nhưng trong Các nước xã hội chủ nghĩa anh emthì đối tượng đã được chỉ rõ hơn là “xã hội chủ nghĩa”. Ở đây, dụng ý của tác giả là: các nước có quan hệ anh em cần phải đoàn kết với nhau, các nước xã hội chủ nghĩa là anh em thân thiết càng phải đoàn kết hơn.
Như vậy, cấu trúc định danh càng được mở rộng thì nội dung, đối tượng được nói đến càng cụ thể và đồng thời lượng thông tin cũng được tăng lên. Cấu trúc định danh trong ngôn ngữ của Bác không chỉ mở rộng về nội dung, nghĩa là mở rộng cả về lượng và chất.
Tuy chưa hoàn chỉnh như cấu trúc câu, chỉ là một bộ phận của câu, nhưng cấu trúc định danh mở rộng thể hiện rất rõ tính thông báo, tính mục đích. Nhân dân anh em hai nước chúng ta(tr. 727, t.7), có nghĩa: nhân dân hai nước của chúng ta vốn là anh em, mãi là anh em. Các nước anh em tiến bộ(tr. 15, t.9) – các nước có tư tưởng tiến bộ, đấu tranh cho hoà bình thế giới đều là anh em. Trong mỗi cấu trúc, từng từ, từng chữ đều mang một ý nghĩa nào đó mà Bác muốn biểu đạt. Mỗi khi Bác nói hay viết đều có sự sàng lọc, lựa chọn từ ngữ kĩ càng. Sử dụng cấu trúc định danh mở rộng là Bác đã tạo được những sắc thái nghĩa mới, mặt khác, ngôn ngữ của Bác không xa lạ mà mang đậm tính quần chúng. Do vậy, có thể nói ngôn ngữ của Bác giản dị, dễ hiểu nhưng không hề đơn giản.
Trong khi thu thập và khảo sát tư liệu, chúng tôi gặp nhiều cầu trúc kêu gọi tình đoàn kết theo kiểu những cấu trúc như trên. Ví dụ:
Các dân tộc anh em(tr. 208, t.7)
Các dân tộc anh em Á Đông(tr. 245, t.4)
Anh chị em công nhân ta(tr. 261, t.5)
Anh chị em lao động ta(tr. 128, t.4)
Bà con bè bạn các nước anh em…(tr. 803, t.7)
Một trong những mục tiêu hàng đầu mà Bác hướng tới là thắt chặt tình đoàn kết, “toàn dân đoàn kết”. Bác sử dụng nhiều yếu tố “đồng bào” với chức năng định danh, thể hiện dụng ý khẳng định điều gì đó mà người nói đang hướng tới. Ở đây, Bác muốn mỗi người dân cần nhận thấy phần trọng trách của mình trước thời cuộc, trước vận mệnh của tổ quốc. Mọi người dân Việt Nam đều là “đồng bào”, không phân biệt vùng miền, giai cấp, tôn giáo, vị trí xã hội.
Đồng bào miền Nam anh hùng(tr. 730, t.10)
Đồng bào lao động chân tay(tr. 625, t.7)
Đồng bào nông dân lao động(tr. 519, t.7)
Đồng bào miền Nam ta(tr. 519, t.7)
Đồng bào miền Nam ruột thịt(tr. 617, t.10)
Đồng bào tín đồ Phật giáo…(tr. 560, t.7)
Bác luôn có những cách nói dễ đi vào lòng người. Khi phong tặng danh hiệu “chiến sĩ” cho nhân dân, Bác đã kịp thời động viên, khích lệ nhằm tăng thêm tinh thần hăng hái chiếu đấu của quần chúng nhân dân.
Nam nữ chiến sĩ(tr. 224, t.4)
Các bà mẹ chiến sĩ(tr. 328, t.6)
Chiến sĩ không quân nhân dân(tr. 378, t.10)
Chiến sĩ kinh tế tài chính(tr. 186, t.6)
Chiến sĩ nghệ thuật(tr. 136, t.6)
Chiến sĩ ta(tr. 167, t.5)
Chiến sĩ anh hùng…(tr. 167, t.5)
Tất cả mọi người, không phân biệt già trẻ, gái trai, không phân biệt ngành nghề, hễ lao động giỏi, chiến đấu giỏi đều là “chiến sĩ”. Bác có thái độ trân trọng đối với tất cả những người làm các công việc khác nhau, mọi giới khác nhau.
Bác đặc biệt chú ý sử dụng ngôn ngữ sao cho phù hợp với từng đối tượng giao tiếp. Tiếp xúc với giới trí thức, với bà con lao động chân tay, với anh em bè bạn, đồng chí quốc tế, hay đối đáp với kẻ thù, Bác đều có ngôn ngữ riêng của mình.
Ví dụ:
Anh chị em lao động ta(tr. 128, t.4)
Anh chị em công nhân ta(tr. 261, t.5)
Trung đội dân quân gái(tr. 567, t.7)
Các đồng chí giáo sư bạn(tr. 792, t.7)
Các đồng chí chuyên gia nước anh em (tr. 72, t.9)
Anh chị em nông dân lao động các thuộc địa… (tr. 461, t.1).
Với những cấu trúc như thế này, ta như đang cảm nhận được tình cảm chân thành với ánh nhìn trìu mến và nét cười hiền hậu từ nơi Bác. Bác không có gia đình riêng, nhưng Bác có một gia đình lớn: toàn dân Việt Nam đều là con cháu của Bác. Bác hiểu điều này hơn ai hết và Bác vẫn thường dùng cụm từ “đại gia đình” để chỉ sự chung chí hướng của nhân dân ta và nhân dân trên thế giới. Ví dụ:
Đại gia đình quân đội nhân dân(tr. 129, t.9)
Đại gia đình quân đội nhân dân ta(tr. 129, t.9)
Đại gia đình xã hội chủ nghĩa(tr. 741, t.7)
Đại gia đình châu Á(tr. 416, t.4)
Đại gia đình hoà bình(tr.333, t.7)
Đại gia đình kháng chiến(tr. 119, t.6)
Đại gia đình dân chủ thế giới…(tr.411, t.5)
Nhưng, khi đối diện với kẻ thù, các xấu và cái ác, Bác luôn thể hiện bằng tiếng nói gay gắt, đanh thép, không khoan nhượng.
Bác đả kích những thói hư tật xấu. Ví dụ:
Thói rỗng tuếch(tr. 523, t.4)
Bệnh xu nịnh(tr. 478, t.4)
Tệ tham ô hủ hoá(tr. 155, t.6)
Lối ăn cắp hợp pháp hoá…(tr. 181, t.1)
Xét về mặt hình thức thì những cấu trúc này khó có thể phân định một cách rõ ràng đâu là định danh, đâu là mở rộng bởi “thói, bệnh, nạn, tệ” là những yếu tố được kết hợp với “rỗng tuếch, xu nịnh, ăn cắp, tham ô…” chặt chẽ tới mức gần như chúng vốn có sẵn như vậy trong ngôn ngữ. Tuy nhiên, ở đây chúng tôi không xét nhiều đến mặt hình thức mà chủ yếu tìm hiểu về nội dung, lượng thông tin mà mỗi cấu trúc mang lại. Khi kết hợp những yếu tố mang ý nghĩa tiêu cực với nhau là Bác đã tăng thêm tính phê phán. Sự tăng cấp về nghĩa ở đây không chỉ là cấp số cộng mà là cấp số nhân. Lý giải về điều này, đơn giản là Bác có tầm nhìn mới và lớn hơn chúng ta rất nhiều. Có những cách nói sáng tạo của Bác sau này đã đi vào vốn ngôn ngữ tiếng Việt một cách tự nhiên và dần trở thành thói quen nói năng của người Việt.
Chỉ với những cấu trúc định danh rất ngắn cũng đủ thấy Bác đau lòng tới mức nào trước những hiện tượng đáng buồn. Bác như muốn tất cả mọi người đồng lòng lên án thói hư tật xấu, triệt tiêu cái xấu.
Bác căm phẫn tột độ trước những thói tàn ác, những trò lừa bịp bỉ ổi của bọn bán nước và thực dân cướp nước. Thuế máuchỉ gồm hai âm tiết nhưng cũng đủ để chứa đựng trong đó bao nhiêu nỗi thống khổ, cả máu và nước mắt của người dân thuộc địa phải chịu sự chà đạp, áp bức của chủ nghĩa thực dân. Ví dụ:
Lũ việt gian bù nhìn chó săn(tr 339, t.6)
Bọn cá mập thực dân cướp bóc(tr.77, t.2)
Chế độ cai trị vô liêm sỉ(tr. 181, t.1)
Nền văn minh “quái vật”(tr. 206, t.1)
Một nền văn minh khát máu(tr. 443, t.1)
Bọn thực dân bất nhân bội tín…(tr.130, t.5)
Hơn thế, Bác mỉa mai, miệt thị bọn thực dân bằng những từ ngữ tưởng như rất nhẹ nhàng nhưng thực rất quyết liệt, đả kích trên mức bình thường. Ví dụ:
Quan công sứ thanh liêm nhà ta(tr. 397, t.1)
“Nền văn minh khai hoá cao cả”(tr.253, t.1)
Các quan lớn bảo hộ nhà ta(tr. 181, t.1)
Các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu(tr. 319, t.1)
Những “ân huệ” của chủ nghĩa thực dân…(tr. 135, t.1)
Bằng lối nói gián tiếp Bác mượn lời nói, giọng điệu của thực dân để đả kích chính bọn chúng, nhất là những tổ hợp từ được Bác đặt trong dấu ngoặc kép có tác dụng tăng thêm sức chiến đấu. Các quan cai trị của thực dân vô cùng tàn ác nhưng hễ mở miệng là chúng nói đến dân chủ, tự do, nhân đạo, chúng đến xâm lược nước ta nhưng lại nói là “khai hoá văn minh”, “bảo hộ”... cho chúng ta - lời nói của thực dân luôn đi ngược với hành vi, việc làm của chúng. Từ thực tế đó, Bác khéo sử dụng những từ ngữ có ý nghĩa “nghịch lí” đi cùng với nhau nhằm mỉa mai, châm biếm thực dân, làm lộ rõ bản chất thật của thực dân.
Từ một vài ví dụ trên đây, chúng tôi thấy cấu trúc định danh mở rộng đã góp phần khẳng định thêm về nghệ thuật dùng từ của Bác. Mỗi cấu trúc định danh mở rộng đều mang một nội dung nhất định, có thể không cần dựa vào văn cảnh, hoàn cảnh phát ngôn mà chúng ta vẫn có thể lĩnh hội được dụng ý của người nói. Đó chính là một phong cách ngôn ngữ điền hình cho việc sử dụng ngôn ngữ đa dạng, nhiều thông tin như Bác.
Tài liệu trích dẫn:
Hồ Chí Minh toàn tập(10 tập), NXB Sự thật, 1980-1989 (* Trong phần trích dẫn kí hiệu: tr: trang, t: tập)
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Lai - Những bài giảng về ngôn ngữ học đại cương, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 1997.
2. Huỳnh Lý – Văn Hồ Chủ tịch, NXB Chính trị quốc gia, 1981.
3. Viện Ngôn ngữ học - Học tập phong cách ngôn ngữ của chủ tịch Hồ Chí Minh, NXB. KHXH. 1981
Nguồn: Ngôn ngữ & Đời sống, số 8 (118), 2005, tr 1-3








