Tìm hiểu chuyện tình Nguyễn Du - Hồ Xuân Hương
Một điều thật đáng tiếc cho chúng ta ngày nay là đối với các danh nhân văn hoá, sử sách thường ít chú ý đến tiểu sử và ngay cả việc lưu trữ các nguyên tác của họ cũng chưa được quan tâm thích đáng. Vì vậy đến nay mặc dù rất nhiều học giả đã dành thời gian nghiên cứu mà chúng ta mới chỉ biết được một cách gần đầy đủ về Nguyễn Du, còn về Hồ Xuân Hương thì:
Người ta nói nhiều về
Hồ Xuân Hương
Nhưng người đó là ai?
Thật mỉa mai
Không ai biết rõ
Như có như không như không như có.
(Thơ Hoàng Trung Thông).
Những người đầu tiên phát hiện và gỡ được “ tơ duyên còn vướng mối này chưa xong” là các cụ: Giải nguyên Lê Thước, Phó bảng Phan Sĩ Bàng lúc đang dạy học ở Cao đẳng tiểu học Vinh. Năm 1922 các cụ đã về Tiên Điền - quê hương Nguyễn Du - và được cụ Nguyễn Mai (1876-1954), Tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1904), là “ người đại diện trí thức rất tiêu biểu của họ Nguyễn Tiên Điền” kể lại:
“ Cụ Tố Như trước kia có quen thân với nữ sĩ Hồ Xuân Hương, nhân nhà nữ sĩ có đề ba chữ Cổ Nguyệt Đường, có lần cụ Tố Như có vịnh đùa câu thơ sau:
Đã cổ lại còn đeo thói Nguyệt,
Còn Xuân chi để lạnh buồng Hương? (1).
Câu thơ ấy vế trên là chiết tự chữ Hồ, họ của nữ sĩ, vế dưới là tán nghĩa hai chữ tên của nữ sĩ. Hồi đó mọi người vẫn tin rằng câu thơ bông lơn ấy là của Chiêu Hổ, tức Phạm Đình Hổ như một số giai thoại đã kể, nên đã không chú tâm lắm đến câu chuyện mà cụ Tiến sĩ Nguyễn Mai kể.
Những câu chuyện được kể và lưu truyền trong dòng họ Nguyễn Tiên Điền, lại được một vị tiến sĩ là con cháu trong họ ra đời năm 1876, chỉ sau khi Nguyễn Du mất có 56 năm, gọi Nguyễn Du là ông bác, kể lại một cách chuẩn xác, chân tình với người nghe cũng lại là hai bậc khoa bảng, nhưng vì thiếu “ giấy trắng mực đen” nên cũng không được lưu tâm tiếp nhận để đến nỗi rơi vào quên lãng.
Cụ Tiến sĩ Nguyễn Mai trả lời cụ Giải nguyên Lê Thước khi: “ Dò hỏi xem trong họ có ai còn giữ được nguyên bản Truyện Kiều do chính tay tác giả viết ra hoặc có tự tích tác giả sửa chữa” (1) thì dù trong nhà còn có bản Kiều Tiên Điền chép tay (mà trước đó cụ Nghè đã cho Phạm Kim Chi một bản sao mang về Nam phiên âm ra: Kim Tuý Tình Từ năm 1917), cụ Nghè Mai vẫn trả lời một cách chuẩn xác là: “ Không có bản nào” (1). Nghĩa là cụ Nghè có ý thức rất chính xác, trung thực trong từng lời kể chuyện về các bậc tiên hiền của dòng họ mình.
Ngoài ra cũng trong bài Tựa cho bản Kim Tuý Tình Từnói trên, cụ Nghè Mai còn công bố một thông tin rất chuẩn xác:
“Ông tôi đây (Nguyễn Du) là kẻ nho sinh khoa Kỷ Mão trước, vương sắc phong cho làm Đại phu chính trị khanh rồi Khâm sai cống sứ nước Tàu. Đến chừng về lên chức Lễ bộ Hữu Tham tri tước Du Đức Hầu, hiệu Nguyễn Thanh Hiên tiên sinh” (thế mà biết bao nhiêu nhà nghiên cứu do không nắm được thông tin này lại cứ cho rằng Nguyễn Du được phong tước Du Đức Hầu năm 1805 - trước khi đi sứ) (2).
Như vậy ta đều thấy rằng các thông tin do cụ Tiến sĩ Nguyễn Mai kể hoặc viết lại nếu có liên quan đến Nguyễn Du và Truyện Kiều đều khách quan, trung thực và chính xác. Vậy việc cụ Nguyễn Du viết câu thơ chiết tự bỡn người đồng hương xứ Nghệ Hồ Xuân Hương là điều có thể xảy ra và đáng tin là xác thực.
Nhà nghiên cứu văn học Trần Thanh Mai đã thực sự có duyên khi vào năm 1964 đã tìm được tập thơ Lưu Hương ký“của người phụ nữ là Cổ Nguyệt đường Xuân Hương, em gái ông lớn họ Hồ, đậu Hoàng giáp, người làng Hoàn Hậu huyện Quỳnh Lưu” (3) thì chúng ta mới được biết đích xác Hồ Xuân Hương có quan hệ tình cảm gắn bó với Nguyễn Du qua bài: “ Cảm cựu kiêm trình Cần chánh Học Sĩ Nguyễn Hầu”, trong tập Lưu Hương kýấy, với lời chú thích rất đáng chú ý ngay dưới tên bài thơ là: “ Hầu, Nghi Xuân Tiên Điền nhân”:
Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung,
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng.
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn,
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không.
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập,
Phấn son càng tủi phận long đong.
Biết còn mảy chút sương siu mấy?
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong (4).
Nữ sĩ đã thực sự bày tỏ tâm sự của mình, từng hàng như có “ nước mắt thấm ở trên tờ giấy”. Nàng mừng cho Nguyễn Du được vinh thăng Chánh sứ nhưng có lẽ ước thầm Hầu còn nhớ tình xưa và khi qua Thăng Long sẽ ghé thăm lại Cổ Nguyệt đường vì nàng vẫn “ lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong”. Bài thơ này chắc chỉ là viết để giãi bày tâm sự thôi, vì viết mà chép vào sách chưa chắc là sẽ gửi, mà nếu gửi liệu có đến tay Nguyễn Hầu trước khi ra Thăng Long không? Xem kỹ trong thơ từ của hai người còn để lại, thì không thấy có cuộc tái ngộ.
Chẳng lẽ chuyện tình duyên giữa hai thi sĩ lại chỉ là đơn phương một chiều vậy sao? Không! Theo tiểu sử của thi hào, năm 1791 Nguyễn Nễ (anh trai cùng mẹ với Nguyễn Du) đi sứ nhà Thanh về qua Thăng Long nhớ đến em đang ẩn tại Thái Bình có làm bài thơ:
Hoài Tố Như đệ
Tố Như hà xứ trú?
Linh lạc tối kham ai,
Tự hữu lãng vân chí, Hoàn vô thiệp thế tài.
Dịch nghĩa:
Tố Như ở nơi nào?
Lưu lạc thật đáng thương!
Người vốn có chí cưỡi mây,
Nhưng không có tài giao thiệp với đời (5).
Vậy chắc chắn khi nhận được thư này Nguyễn Du mới có dịp lên Thăng Long, vì trong bài Tựa Long thành cầm giả ca đã nhớ lại: “ Hồi còn trẻ tôi lên kinh thăm anh, ngủ đậu ở quán trên Giám hồ. Bên cạnh các quan Tây Sơn họp, nhiều nữ nhạc, con hát có tiếng không dưới vài chục người… Sau đó mấy năm, tôi dời nhà về Nam, xa cách Thăng Long tưởng như đã nghìn năm vậy. Mùa xuân năm nay phụng mệnh đi sứ sang Bắc, đường quan Thăng Long, các quan tiễn đưa ở nhà Tuyên Phủ, gọi hết nữ nhạc trong thành, con hát trẻ đến mấy chục người…”. Buổi cầm ca tiễn đưa năm 1813 đó đã khiến Nguyễn Du xúc động viết trong bài Long thành càm giả ca:
Nhớ lại buổi tiệc ấy đã qua hai chục năm rồi…
… Bỗng chợt nhớ lại việc hai chục năm về trước.
Vậy thì “ chữ tình chốc đã ba năm vẹn” mà Hồ Xuân Hương nhắc đến chính là khoảng thời gian từ lúc Nguyễn Du lên kinh thăm anh rồi quen và bén duyên với nữ sĩ họ Hồ đến “ mấy năm sau tôi dời nhà về Nam”mới gỡ ra được khỏi mối tơ vương với Hồ Xuân Hương. Sau này, năm 1813 đi sứ qua Thăng Long hồi tưởng lại thi hào mới viết là “ nhớ lại việc hai chục năm về trước”. Tình duyên bén với cô gái hàng xóm có “ đôi mắt đen tròn”, hay “ cười khúc khích”, “ cách nhau có dậu mồng tơi xanh rờn”, nhưng vì chàng đã có vợ, nàng lại chưa chịu chấp nhận làm lẽ, nên tình duyên đành lỡ dở. Vết thương lòng đó đã khía sâu vào trái tim đa cảm của người con trai tài hoa Thăng Long, nên khi làm quan ở triều đình Huế, Nguyễn Du đã gửi hồn về Bắc, mà có lẽ là gửi riêng cho “ cô nhà bên” qua bài thơ: Mộng đắc thái liêntrong tập: Nam trung tạp ngâm:
Dịch thơ: Chiêm bao mơ hái được sen
I. Thắt chặt quần cánh bướm,
Hái sen thuyền nhỏ bơi.
Nước hồ sen trong vắt,
Trong nước có bóng người.
II. Hồ Tây hái, hái sen,
Hoa gương đều bỏ thuyền.
Hoa tặng người mình sợ,
Gương mặt người mình quen.
III. Sớm nay đi hái sen,
Hẹn với cô nhà bên.
Đến lúc nào chẳng biết,
Cách hoa nghe cười lên.
IV. Hoa sen ai cũng ưa,
Cuống sen nào ai thích.
Trong cuống có tơ mành,
Vấn vương không thể dứt.
V. Lá sen sao xanh xanh,
Hoa sen sao xinh xinh.
Hái sen chớ hại ngó,
Sang năm hoa chẳng sinh (6).
Cô gái “ ở nhà bên” chắc là phải vừa có tài, vừa tinh nghịch sắc sảo nên chàng trai có vợ rồi Nguyễn Du tuy sợ mà vẫn muốn quen và vẫn thả hồn về nơi mảnh đất thân thương đầy kỷ niệm để hái hoa sen tặng nàng, để được hẹn hò, được nghe tiếng cười khúc khích của nàng. Cô gái trong mộng ấy có đúng là nữ sĩ Hồ Xuân Hương không? Trong hai câu cuối của khổ thơ đầu đã hàm ý chơi chữ, đố chữ cho biết người trong mộng chính là người con gái họ Hồ rồi còn gì!
Nguyên tác:
Hồ thuỷ hà xung dung!
Thuỷ trung hữu nhân ảnh.
Dịch nghĩa:
Nước hồ sao mà đầy ắp?
Trong nước có bóng người.
Nghĩa bóng:
Tình cảm của Hồ với ta vẫn nồng hậu!
Trong nước ta vẫn thấy bóng người họ Hồ.
Lá thư tình của hai thi sĩ ở cách nhau gần nghìn cây số và cách ngày nay đã gần 200 năm, cố học giả Hoàng Xuân Hãn cũng đã luôn nhớ đến cố nhân và ông đã: “ Phối hợp những sử liệu có ở tay, để đoán được thân thế ít nhiều về nữ sĩ, nhất là khẳng nhận sự dan díu giữa hai tài tử bậc nhất trong văn giới Việt Nam… Đối với tôi thì không những tôi không nghi ngờ gì đến cuộc tình duyên “bất chính” đối với nhà nho xưa. Và có lẽ đối với phong trào hợp thức ngày nay, tôi tin tưởng thực rằng người thiếu nữ trong bài “Thái liên” của Nguyễn Du chính là nữ sĩ Hồ Xuân Hương”. (Trích thư của cố học giả Hoàng Xuân Hãn gửi Đào Thái Tôn ngày 12-9-1994). Và thế là chúng ta tin chắc rằng mối tình giữa hai con người tài hoa của văn học dân tộc và thêm quý trọng nhân cách và tình cảm trong sáng của hai người, nhưng không khỏi tiếc nuối, bùi ngùi:
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.
Quá thương chút nghĩa đèo bòng,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
____________
1. Lê Thước: Vài mẩu hồi ức về việc nghiên cứu Nguyễn Du và Truyện Kiều in trong tập: Kỷ niệm 200 năm, năm sinh Nguyễn Du, H, NXB KHXH 1971, tr. 416-418.
2. Xem: Tờ chiếu của vua Gia Long phong tước Du Đức Hầu cho Nguyễn Du, của Nguyễn Khắc Bảo in trong tạp chí Xưa & Nay, số 79, tháng 9/2000.
3. Đào Thái Tôn: Thơ Hồ Xuân Hương - Từ cội nguồn vào thế tục, H. NXB Giáo Dục, 1996, tr. 8 và 109.
4. Đào Thái Tôn. Sđd, tr.20.
5. Thơ quốc âm Nguyễn Du. Nguyễn Thạch Giang khảo đính. H, NXB Giáo Dục, 1996, tr.29-30.
6. Thơ chữ Hán Nguyễn Du. H, NXB Văn học, 1988.
Nguồn: Xưa & Nay, số 83, 1/2001, tr 28, 29