Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ bảy, 27/05/2006 00:23 (GMT+7)

Tiếng Anh: Khi các nhà khoa học gật đầu và mỉm cười

Từ Australia, TS Y khoa Nguyễn Văn Tuấn gửi ý kiến "Nhu cầu tiếng Anh qua kinh nghiệm của một người làm khoa học" xung quanh tranh luận về đề án dạy, học ngoại ngữ trong nhà trường từ nay đến 2020.

Trong thời đại toàn cầu hóa, thông thạo một ngoại ngữ mở ra một cánh cửa và lựa chọn sự nghiệp cho cá nhân.   


Ở nước ta trong quá khứ, có nhiều “làn sóng” học tiếng Pháp, Nga, và tiếng Trung Quốc. Nhưng xu hướng chung của HSSV ngày nay có lẽ là học tiếng Anh.  Thật ra, chẳng phải riêng gì ở nước ta, mà trên thế giới ngày nay, tiếng Anh là ngôn ngữ phổ biến nhất, được nhiều người học nhất, và có nhu cầu cao nhất (1).  Theo thống kê hiện nay, tiếng Anh là ngôn ngữ mẹ đẻ của khoảng 400 triệu người.  Ngoài số này, còn có hơn 430 triệu người sử dụng tiếng Anh như là một ngôn ngữ thứ hai, và khoảng 750 triệu người sử dụng tiếng Anh như là một ngoại ngữ (1). Có nghiên cứu cho rằng đến năm 2015, phân nửa dân số trên thế giới sẽ sử dụng tiếng Anh.


Bất cứ sự mất cân bằng nào cũng đáng quan tâm. Phong trào theo học tiếng Anh ở nước ta làm cho vài người quan tâm đến vấn đề chiến lượchay “làm nghèo văn hóa”.  Thật ra, tôi rất cảm thông với những quan tâm này, nhưng chúng ta cũng cần nên nhìn vấn đề thực tế hơn. Ở đây, tôi chỉ muốn bàn qua vấn đề này qua kinh nghiệm và cái nhìn của một người làm khoa học.


Trên thế giới ngày nay, tiếng Anh không chỉ là một ngôn ngữ quốc tế trong các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, kinh tế, mà còn là một thứ ngôn ngữ Esperantotrong hoạt động khoa học quốc tế. Vào thập niên 1980s, trên 60% các tập san khoa học trên thế giới sử dụng tiếng Anh. Hai mươi năm sau, con số này là trên 80%. Trong vài lĩnh vực như y khoa và sinh học, hiện nay hơn 90% các tập san sử dụng tiếng Anh (2). Ngay cả tập san khoa học tại các nước không nói tiếng Anh như các nước Bắc Âu và Nhật cũng sử dụng tiếng Anh làm phương tiện thông tin. Các tập san danh tiếng và uy tín vào hàng số một trên thế giới (như Science, Nature, Cell, Lancet, New England Journal of Medicine, Nature Genetics,v.v…) đều xuất bản bằng tiếng Anh.


Ngoài ra, tiếng Anh đã trở thành một ngôn ngữ quốc tế cho các hội nghị khoa học quốc tế. Ngay cả các diễn giả đến từ các cường quốc khoa học như Đức, Pháp, Hà Lan, Thụy Điển … cũng chỉ dùng tiếng Anh để trao đổi với đồng nghiệp quốc tế. Những ai không thạo tiếng Anh là cũng có khi đồng nghĩa với thiệt thòi.  Một số hội nghị quốc tế thẳng thừng yêu cầu diễn giả phải trình bày nghiên cứu của mình bằng tiếng Anh, và nếu không thông thạo tiếng Anh thì ban tổ chức sẽ rút lại bài báo cáo! (Người viết bài này thường làm chủ tọa và nằm trong ban tổ chức các hội nghị quốc tế nên biết khá rõ điều này đằng sau hậu trường, và đã từng chứng kiến khá nhiều trường hợp các diễn giả gốc Á châu bị “ép”).


Đã biết bao nhiêu lần, trong các hội nghị, tôi chứng kiến cảnh diễn giả nói tiếng Anh không rành phải được yêu cầu nhường cho người khác nói. Đã biết bao nhiêu lần tôi chứng kiến cảnh các nhà khoa học trong nước ra ngoài họp và không nói và viết thạo tiếng Anh, không có khả năng diễn đạt kết quả nghiên cứu một cách rành rọt, và đồng nghiệp chỉ biết lịch sự gật đầu và … mỉm cười. Thật là một thiệt thòi!


Theo tác giả Phạm Duy Hiển (Tạp chí Tia Sángsố Tháng 6/2005) trong năm 2003, các nhà khoa học Việt Nam đã công bố trên 7000 bài báo trên các tạp chí hay tập san khoa học trong nước.  Con số này rất ư là ấn tượng, song đó chỉ là những bài báo “ta viết cho ta đọc” chứ trên trường quốc tế thì sự hiện diện của các nhà khoa học Việt Nam còn rất khiêm tốn.  Vẫn theo tác giả Phạm Duy Hiển, trong năm 2001 các nhà khoa học Việt Nam chỉ công bố được 354 bài báo khoa học trên các tập san quốc tế, mà 71% con số này là do cộng tác với các nhà khoa học ngoài Việt Nam. Trong ngành y khoa, trong suốt 40 năm qua (tính từ 1965) các nhà khoa học tại Việt Nam chỉ có khoảng 300 bài báo trên các tập san y sinh học quốc tế.  Đó là những con số cực kì khiêm tốn, khi so sánh với Thái Lan (5000 bài) hay Singapore (20.000 bài).


Tình trạng khiêm tốn trên có nhiều lí do, nhưng một trong những lí do đó, theo tôi, là khả năng tiếng Anh của các nhà khoa học trong nước còn nhiều hạn chế.  Điều này cũng có thể hiểu được vì hơn một thế hệ nhà khoa học ở nước ta thạo tiếng Nga hơn là tiếng Anh trong thập niên 1960s và 1970s.  Tôi từng biết khá nhiều trường hợp các đồng nghiệp trong nước có nghiên cứu, thảo xong một bài báo và gửi cho tập san khoa học, nhưng bị trả lại vì chất lượng tiếng Anh chưa đạt tiêu chuẩn.  Đó là một thiệt thòi cực kì thực tế cho khoa học Việt Nam.


Vì đóng vai trò biên tập trong vài tập san y khoa thế giới, nên tôi thường thấy rất nhiều trường hợp mà bài báo khoa học từ các nước như Nga, Cuba, Ba Lan, Ả Rập, Mã Lai, Thái Lan, thậm chí Nhật, ban biên tập phải trả lại cho tác giả vì vấn đề tiếng Anh. Do đó, một số nước giàu có như Nhật và Thụy Điển chẳng hạn, các trường ĐH bỏ tiền ra để mướn chuyên gia tiếng Anh chỉ để cố vấn và sửa bản thảo bằng tiếng Anh cho các nhà khoa học bản xứ.


Tất nhiên, các nhà khoa học trong nước vẫn có thể gửi bài báo đến các tập san ngoài tiếng Anh, nhưng rất tiếc là số lượng các tập san đó không nhiều và chất lượng cũng chẳng cao, và rất ít người đọc. Nhưng người làm khoa học muốn chia sẻ thông tin, muốn quảng bá ý tưởng của mình đến một diễn đàn rộng lớn nhất, và hiện nay chỉ có một ngôn ngữ duy nhất làm phương tiện cho việc quảng bá thông tin: đó là tiếng Anh!


Có nhiều người lí giải rằng chẳng cần học tiếng Anh vì biết tiếng Đức hay Pháp cũng có thể làm khoa học. Nhưng điều này chỉ đúng một phần, vì chính những giới khoa học từ các “cường quốc” khoa học này cũng học tiếng Anh để trao đổi với đồng nghiệp trên thế giới.


Do đó, đứng trên phương diện và vì lợi ích khoa học ở nước ta, tôi thấy tiếng Anh cần phải được xem là một ngoại ngữ chính không chỉ cho cho HSSV mà còn cho cả các quan chức. Cố nhiên, cũng nên được khuyến khích HSSV theo học các ngoại ngữ khác, nhưng hiện nay, tiếng Anh vẫn là một ưu tiên số một.


Chú thích:


1.  Crystal D. English as a global language. Cambridge University Press ed 2, 2003.

2.  Large A.  The foreign language barrier.  Deutsch, London, 1983

Nguồn: vnn.vn, 08/05/2006

Xem Thêm

Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Một trí thức Liên hiệp Hội tỉnh Bình Phước được Đồng Nai giữ lại tránh “chảy máu chất xám” trong sắp xếp bộ máy
Sở Nội vụ tỉnh Đồng Nai vừa có văn bản khẳng định ông Nguyễn Ngọc Vũ - Phó Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật (KH&KT) tỉnh Đồng Nai, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Liên hiệp các hội KH&KT tỉnh Bình Phước không thuộc diện giải quyết nghỉ việc theo Nghị định 178/2024/NĐ-CP.
VUSTA làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Bắc Kinh (BAST)
Ngày 7/8, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Tp. Đà Nẵng, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đã có buổi làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Bắc Kinh (BAST). Đây là hoạt dộng trong khuôn khổ Hội nghị giữa kỳ lần thứ 24 của AFEO do VUSTA tổ chức đăng cai.
Vinh danh 20 kỹ sư tiêu biểu tại Hội nghị AFEO năm 2025
Ngày 6/8, tại Đà Nẵng, trong khuôn khổ chương trình Hội nghị AFEO Midterm 2025 do Liên đoàn các Tổ chức Kỹ sư ASEAN (AFEO) phối hợp Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tổ chức, 20 kỹ sư đến từ các đơn vị của Việt Nam đã được vinh danh tại Lễ trao chứng chỉ Kỹ sư chuyên nghiệp ASEAN (ACPE) năm 2025.
(Video) Khai mạc Hội nghị AFEO Midterm 2025 tại Đà Nẵng
Ngày 6/8, tại TP Đà Nẵng, Liên đoàn các tổ chức kỹ sư ASEAN (AFEO) chính thức khai mạc phiên toàn thể Hội nghị giữa kỳ lần thứ 24. Hội nghị là diễn đàn để các nhà khoa học, các kỹ sư, các chuyên gia cùng chia sẻ, thảo luận các giải pháp trong việc kiến tạo một tương lai bền vững cho khu vực ASEAN.
Ba mục tiêu khi xây dựng thành phố thông minh tại ASEAN
Nằm trong khuôn khổ chuỗi hội thảo thuộc Hội nghị AFEO Midterm 2025 tại Đà Nẵng do Liên đoàn các tổ chức kỹ sư ASEAN (AFEO) và Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tổ chức, Hội thảo Thành phố thông minh - Hướng tới nâng cao chất lượng cuộc sống đã xác định được 3 mục tiêu khi xây dựng thành phố thông minh tại ASEAN.
Khai mạc phiên toàn thể của Hội nghị AFEO Midterm 2025 tại Đà Nẵng
Ngày 6/8, tại TP Đà Nẵng, Liên đoàn các tổ chức kỹ sư ASEAN (AFEO) chính thức khai mạc phiên toàn thể Hội nghị giữa kỳ lần thứ 24. Hội nghị là diễn đàn để các nhà khoa học, các kỹ sư, các chuyên gia cùng chia sẻ, thảo luận các giải pháp trong việc kiến tạo một tương lai bền vững cho khu vực ASEAN.