"Thước đo" nào cho khoa học Việt Nam?
Số bài báo quốc tế không là "thước đo" công bằng khoa học Việt Nam
![]() |
| Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm |
Nhưng không vì một số yếu kém, nhược điểm nói trên mà phủ nhận những thành tựu, những đóng góp của giới khoa học Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới. Cần nhìn nhận vấn đề này một cách khách quan và công bằng. Nếu chỉ lấy số lượng bài báo quốc tế làm tiêu chí duy nhất đánh giá trình độ của giới khoa học Việt Nam thì thật không công bằng. Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam còn chưa vượt qua ngưỡng kém phát triển, trình độ công nghệ của doanh nghiệp còn lạc hậu, chúng ta phải xác định trọng tâm hoạt động KH&CN thời kỳ này là hỗ trợ nền kinh tế tích cực đổi mới công nghệ, từng bước làm chủ và tiến tới sáng tạo công nghệ.
Như vậy ngoài số lượng các bài báo quốc tế còn phải quan tâm đến các tiêu chí đánh giá khác như số lượng sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, chỉ dẫn địa lý được đăng ký và bảo hộ, tiến bộ kỹ thuật được áp dụng vào sản xuất, sáng kiến cải tiến kỹ thuật,…
Chưa có thống kê đầy đủ, không vội kết luận
Công tác thống kê, trong đó có thống kê KH&CN, còn rất yếu kém. Hầu như không có số liệu thống kê cập nhật về kết quả nghiên cứu và ứng dụng KH&CN. Ví dụ con số chính xác số lượng cán bộ của nước ta có trình độ đại học, trên đại học, số lượng cán bộ khoa học đang làm việc trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước được công bố cách đây hàng chục năm sau cuộc tổng điều tra dân số năm 1999, cho đến nay chưa được cập nhật.
Con số các bài báo quốc tế hay patent đăng ký quốc tế xuất hiện trên mặt báo gần đây chủ yếu dựa vào nguồn thống kê của một số cơ quan thống kê nước ngoài, họ thống kê theo tiêu chí riêng và không bao quát toàn bộ hoạt động KH&CN của Việt Nam.
Ở góc độ trong nước, tất nhiên chúng ta không phủ nhận sự yếu kém trong lĩnh vực này. Và, theo số liệu điều tra sơ bộ (chưa đầy đủ) gần đây nhất của Bộ Khoa học và Công nghệ đối với 474 tổ chức KH&CN thuộc các bộ ngành trung ương, trong 3 năm từ 2005 đến 2007 chỉ có 2606 bài báo quốc tế, 166 sáng chế và 203 giải pháp hữu ích được cấp bằng bảo hộ trong nước và nước ngoài.
Tương tự như vậy, nhiều tổ chức KH&CN, trường đại học và các nhà khoa học có bài báo quốc tế, sáng chế được đăng ký ở trong nước và nước ngoài nhưng lại chưa báo cáo, chưa được cơ quan có trách nhiệm thống kê cập nhật.
Vì vậy, nếu làm tốt công tác thống kê và chế độ báo cáo thì con số các bài báo quốc tế có thể sẽ không đến nỗi ít ỏi như người ta thường nói.
So sánh số bài báo quốc tế giữa ta và các nước là khập khễnh
![]() |
| Khởi động thiết bị thí nghiệm tại Phòng thí nghiệm nano - Khu công nghệ cao TP.HCM |
Năm 1999, đem chia kinh phí chi cho R&D của Hoa Kỳ và châu Âu cho tổng số patent đăng ký thì chi phí trung bình để có được 1 patent : 1,793 triệu euro. Còn Nhật Bản, con số này là 1 patent: 2,409 triệu euro.
Riêng ở Việt Nam, tính trung bình một đề tài khoa học công nghệ cấp nhà nước được cấp khoảng 1-2 tỷ đồng (40.000 - 80.000 euro), một đề tài cấp bộ khoảng 50-100 triệu đồng, một đề tài cấp cơ sở khoảng 5-10 triệu đồng. Mặc dù vậy, số lượng patent, kiểu dáng công nghiệp được các nhà khoa học Việt Nam đăng ký tại Cục Sở hữu Trí tuệ Việt Nam đã tăng nhanh trong mấy năm gần đây, ví dụ giai đoạn 2000-2007 số patent của người Việt Nam đã tăng gấp 2,3 lần, số giải pháp hữu ích tăng 1,7 lần so với giai đoạn 1990-1999.
Không phải là bao biện, nhưng các con số này phần nào “thanh minh” cho sự yếu kém nói trên… Liệu có duy ý chí không khi đòi hỏi chúng ta phải có số lượng patent và bài báo quốc tế như Trung Quốc, Thái Lan, khi mà GDP trên đầu người của Trung Quốc năm 2007 đã vượt qua 2.000USD, Thái Lan đã vượt qua 3.000USD, và mức đầu tư cho KH&CN của họ gấp hàng chục lần so với Việt Nam?
Có thể tham khảo thêm số liệu về đầu tư kinh phí cho KH&CN của Việt Nam so sánh với một số nước khác. Về mức đầu tư cho hoạt động KH&CN tính trên đầu người (per capita): Việt Nam khoảng 5USD (năm 2007), trong khi con số đó của Trung Quốc khoảng 20USD (năm 2004) và đặc biệt là Hàn Quốc khoảng 1.000USD (năm2007).
Không phải cứ "đề tài bỏ ngăn kéo" đều là vô tích sự
Thuật ngữ “đề tài bỏ ngăn kéo” thường bị hiểu theo nghĩa xấu. Nhiều người cho rằng cứ đề tài bỏ ngăn kéo là chứng tỏ sự yếu kém trong nghiên cứu, là xấu; thực ra điều đó chỉ đúng một phần. Ngay cả ở các nước phát triển nhất, tỷ lệ nghiên cứu áp dụng vào sản xuất được cũng chỉ dao động trên dưới 20%, Việt Nam cũng không thể là ngoại lệ. Nói chung, “đề tài bỏ ngăn kéo” có thể gồm 4 loại:
- Nghiên cứu không thành công do tính chất mạo hiểm, thậm chí có nghiên cứu đích thực vẫn phải bỏ ngăn kéo, ví dụ để chứng minh một vấn đề nào đó không nên tiếp tục nghiên cứu nữa;
- Nghiên cứu cơ bản đi trước một bước, trong hoàn cảnh hiện tại chưa có đủ điều kiện ứng dụng, sau một thời gian dài khi xã hội phát triển đến một trình độ nhất định mới có điều kiện áp dụng (ví dụ về chất bán dẫn, được ứng dụng sau vài thập kỷ) nên tạm thời phải bỏ ngăn kéo;
- Nghiên cứu không thành công do lý do khách quan (ví dụ do ảnh hưởng của dịch bệnh, thiên tai, kinh phí quá hạn hẹp…). Trong điều kiện ở VN, nhiều nhà khoa học nói rằng họ đôi khi bị thất bại vì kinh phí đầu tư không tới ngưỡng, có trường hợp chỉ cần đầu tư thêm mấy chục % kinh phí nữa là có thể tới thành công, nhưng vì các quy định hiện hành (đặc biệt là sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước) không thể “linh hoạt” thay đổi mức chi ngân sách cho đề tài, khiến cho đề tài dù đã rất gần tới thành công có thể phải dừng lại, đành phải bỏ ngăn kéo.
- Nghiên cứu không xuất phát từ thực tiễn nên không thể ứng dụng được, chưa kể các nghiên cứu bị lợi dụng, sao chép, đây là loại nghiên cứu cần bị phê phán.
Mặc dù vậy, chúng ta không phủ định một thực tế là tỷ lệ các đề tài nghiên cứu của Việt Nam được áp dụng vào thực tế còn rất thấp, số công bố quốc tế và patent được đăng ký còn rất ít so với các nước trong khu vực, nghĩa là tỷ lệ “đề tài bỏ ngăn kéo” của chúng ta còn lớn, đồng nghĩa với hiệu quả nghiên cứu khoa học thấp.Như thế để thấy còn nhiều việc phải làm, làm quyết liệt mới mong thay đổi được tình hình.
Nếu huy động được sự quan tâm của toàn xã hội, sự đầu tư của các doanh nghiệp cho phát triển KH&CN thì chắc chắn khi tiềm lực kinh tế của Việt Nam vượt qua “ngưỡng” nhất định, chúng ta tin tưởng hoạt động KH&CN sẽ có hiệu quả như các nước khác trong khu vực.










