Tháp Báo Thiên của Thăng Long ngàn năm
Thời kỳ nhà Minh sang xâm chiếm nước ta, khi Bình Định Vương Lê Lợi vây hãm chúng trong thành Đông Quan (tên của thành Thăng Long lúc đó), tướng giặc là Vương Thông đã cho quân phá phần tháp bằng đồng ở trên để làm khí giới. Đến thời Lê - Trịnh, có hồi loạn lạc thường xuất hiện những đám quân vô chính phủ đi phá các đền, chùa để tìm của nả. Chúng đã phạm cả vào chùa Sùng Khánh và Tháp Báo Thiên. Dân chúng ở Thăng Long thời đó chứng kiến bao cảnh tao loạn. Theo sách Vân đài loại ngữcủa Lê Quý Đôn thì đầu thế kỷ XVIII, dẫu bị phá mất phần trên bằng đồng, Tháp Báo Thiên vẫn còn là một thắng tích rất nổi tiếng, làm say lòng nhiều người trong nước và cả người nước ngoài đến Thăng Long. Như việc đầu năm Càn Long nhà Thanh (1736), có một người Trung Quốc hay thơ tên là Nhuỵ Tiếp, hiệu Ngọc Dung, từng đáp thuyền đến Thăng Long, đã làm thơ về những thắng cảnh ở đây. Trong số đó, có bài Tiếng chuông sớm Tháp Báo Thiên, với những câu thơ mô tả vẻ huy hoàng, mênh mang, diễm tú lạ thường. Nhưng rồi, những năm sau đó thời cuộc lại loạn lạc, quân vô chính phủ đi phá đền chùa để hôi của đã phá cả chùa Sùng Khánh và Tháp Báo Thiên. Sân chùa biến thành chợ Báo Thiên. Nguyệt Hồ thị bị lấp lấn đến chân Tháp. Nền Tháp còn lại bị cỏ mọc dày. Mãi đến năm Giáp Ngọ (1774), quân Tây Sơn mới cho khai ra, đào lấy được một số gạch đá lớn đem dùng vào việc sửa chữa đoạn cửa Đông Thành Thăng Long. Lúc khai ra, còn thấy nền Tháp Báo Thiên có 4 cửa, xây ngầm, mỗi cửa có hai tượng Phật Kim cương lớn. Trong tầng hầm này còn có nhiều tượng Phật khác nữa và thấy có rất nhiều điêu khắc đã tạc hình các loại chim kỳ lạ, cùng hàng ngàn thứ giường, ghế, đồ dùng ... toàn bằng đá. Tất cả đều được chế tác thật tinh xảo. Nền Tháp lát gạch đá hoa. Mỗi viên gạch hoa đều có khắc dòng chữ Hán: Long thuỵ thái bình tứ niên Lý triều đệ tam đế tạo (Làm năm Long thuỵ thái bình thứ tư, đời vua thứ ba nhà Lý,tức năm 1056).
Kể từ đó, nền Tháp Báo Thiên còn bị phá dỡ thêm, hoang phế mãi thêm. Nguyệt Hồ cũng bị thu hẹp lại. Tới hồi thực dân Pháp chiếm Hà Nội, năm 1873, những người công giáo quy tụ sống ở khu vực này đã dựng một ngôi nhà thờ Thiên chúa bằng gỗ ở đây. Đến năm 1888, vùng này như sách Au Tonkincủa R.Bonnal mô tả, đã là những ngôi làng thực sự, có sắc thái hoàn toàn đặc biệt, náo nhiệt bởi sự có mặt của một số người bản xứ theo đạo Cơ Đốc, các thày tu, các thày giảng giáo lý, chủng sinh, trẻ em mồ côi.Sau đó, người ta đã dựng Nhà thờ lớn của Thiên chúa giáo lên chỗ nền cũ của Chùa và Tháp Báo Thiên.
Mỗi khi dừng chân nơi đây, câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan lại như ngân lên trong lòng ta: Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo - Nền cũ lâu đài bóng tịch dương...Câu thơ thật buồn. Và, trong đáy sâu của nỗi buồn, ta thấy một hồi quang huy hoàng không thể tắt được. Nó đã là ký ức, mà ký ức thì là một bộ phận cấu thành sức sống của dân tộc !
-----
(*) Hồ Lục Thuỷ về sau là Hồ Tả Vọng hay Hồ Thuỷ Quàn hay Hồ Hoàn Kiếm