Thanh Hoá trong phong trào chống thuế ở Trung kỳ năm 1908
Cuộc vận động yêu nước đó đã diễn ra trên nhiều mặt: lập hội buôn, trại cày, mở trường học, cải cách phong tục… Từ không khí sôi nổi của các cuộc vận động thực nghiệp, hô hào bài trừ hủ tục, lưu hành thơ văn yêu nước của các chí sĩ đương thời, phong trào ngày càng đi sâu vào quần chúng rồi từ đô thị, thị trấn, lan dần về thôn quê.
Tháng Giêng năm 1908, phong trào chống thuế bùng nổ tại huyện Đại Lộc (Quảng Nam - Đà Nẵng), quê hương của Phan Châu Trinh. Lúc đầu chỉ là một cuộc biểu tình ôn hoà của nhân dân, nhằm phản đối bọn cường hào ăn tiền trong việc phân bố người đi đắp con đường rải đá từ huyện lên tỉnh. Đến tháng 3 năm đó thì phong trào thực sự thành hình với hàng loạt các cuộc biểu tình lớn đầu tiên xuất hiện trong lịch sử cách mạng cận đại Việt Nam . Quần chúng đã bao vây các phủ huyện, toà Sứ, đưa yêu sách, chất vấn, thậm chí trừng trị bọn tay sai gian ác, xô xát với binh lính. Có nơi có lúc đã thấp thoáng hình thái bạo động cướp chính quyền. Từ Quảng Nam, phong trào chống thuế lan dần vào Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, ra tới Quảng Bình, Nghệ Tĩnh và cuối cùng là Thanh Hoá tháng 5 - 1908.
Phong trào chống thuế Trung kỳ (1908) là một sự kiện đáng lưu ý trong lịch sử cách mạng cận đại Việt Nam về cả hai phương diện quy mô cũng như tính chất. Phong trào này đã được nghiên cứu khá tỉ mỉ ở các địa bàn trung tâm. Nhưng giai đoạn cuối của phong trào khi lan ra tới Nghệ Tĩnh và Thanh Hoá thì còn được ít người chú ý, ngoài vài dòng ghi chép sơ sài của Huỳnh Thúc Kháng và Phan Châu Trinh trong các tác phẩm các cụ viết về thời kỳ này.
Trước hết xin nói về Nghệ - Tĩnh, quê hương của cụ Phan Bội Châu là người cầm đầu xu hướng bạo động ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, địa bàn chiến lược của Duy Tân hội. Trong lúc tập trung mọi cố gắng đưa người xuất dương học tập để chuẩn bị vũ trang bạo động, Phan Bội Châu vẫn không từ bỏ những hình thức hoạt động vốn được coi là đặc trưng của xu hướng cải cách. Trên đất Nghệ - Tĩnh lúc đó có các hội buôn của các sĩ phu ít nhiều thuộc phái cải cách (hội buôn Mộng Hanh của Lê Văn Huân ở Chợ Trỗ - Đức Thọ; hội buôn của Lê Đình Phương ở phố Xuân Tân - Can Lộc; Triêu Dương thương quán của Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn ở Vinh).
Một đặc điểm của Nghệ - Tĩnh là bên cạnh những hoạt động chủ yếu của Duy Tân hội có xu hướng bạo động, chúng ta thấy rõ sự hỗ trợ của các hoạt động cải cách. Đây là một trong những cơ sở khi đánh giá phong trào chống thuế ở Nghệ - Tĩnh. Huỳnh Thúc Kháng đã nhận xét: “Nghệ - Tĩnh và Nam - Ngãi từ phái văn học đến phái Cần Vương Nghĩa hội thường một mạch câu thông với nhau. Còn như ở Quảng Nam và Hà Nội, hai phái tách rời hẳn nhau để dễ làm việc, chỉ giúp nhau trên mỗi một khoản bí mật tiền bạc cho du học sinh, nhưng cũng có nơi có, nơi không” (2).
Khác với các địa phương, ở Nghệ - Tĩnh ngay trước khi phong trào bùng nổ, phần lớn các sĩ phu thuộc nhóm cải cách lãnh đạo phong trào đều bị bắt. Đọc các Châu bản triều Duy Tân, được biết tháng 11 - 1907, tiến sĩ Ngô Đức Kế là người bị bắt đầu tiên (3), rồi đến lượt Lê Văn Huân, Đặng Văn Bá, Đặng Nguyên Cẩn. Vậy thì ai là người đón cơ hội này ở Nghệ - Tĩnh? Có thể khẳng định rằng những người lãnh đạo phong trào chống thuế ở Nghệ - Tĩnh thực sự là các đảng viên hội Duy Tân theo xu hướng bạo động.
Để che mắt địch, Duy Tân hội đã nắm lấy các sĩ phu trẻ đầy nhiệt huyết, để thông qua họ lãnh đạo phong trào chống thuế và hướng phong trào đi theo ý đồ của mình. Cho nên trên bề mặt của phong trào ở Nghệ - Tĩnh đã nổi bật lên những nhân vật đó mà tiêu biểu là Nguyễn Hàng Chi (Can Lộc) và Trịnh Khắc Lập (Nghi Xuân). Nguyễn Hàng Chi hoạt động rất táo bạo vì có hậu thuẫn là Duy Tân hội, ông đã dẫn đầu hơn 600 nông dân biểu tình, kéo lên huyện lị, tri huyện hoảng sợ phải bỏ trốn. Sau đó kéo cả đoàn về tỉnh lị, nhưng bị chặn đường, đàn áp dữ dội, rồi giải tán, bản thân Nguyễn Hàng Chi bị vây bắt. Còn Trịnh Khắc Lập, ngày 22 - 5 - 1908 ông đã diễn thuyết ngay giữa chợ Giang Đình (Nghi Xuân) kêu gọi đồng bào ủng hộ Nguyễn Hàng Chi, vận động nhân dân lên huyện, lên tỉnh kêu sưu. Ngày hôm sau (23 - 5), phối hợp với Nguyễn Hàng Chi ở Can Lộc, ông cũng cầm đầu đám biểu tình hơn 200 người làm náo động chợ búa, kéo tới huyện đường, bắt trói tri huyện giải về tỉnh kêu sưu, nhưng dọc đường các thủ lĩnh đều bị bắt và đoàn biểu tình bị giải tán. Thời gian này, ở nhiều địa phương trong tỉnh cũng nổ ra các cuộc biểu tình kêu sưu ở các mức độ khác nhau. Nhưng kết quả cuối cùng là sau khi phong trào Can Lộc và Nghi Xuân bị rập tắt thì lần lượt phong trào các nơi đều nối tiếp nhau bị giải tán.
Nói tóm lại, trên địa bàn Hà Tĩnh liên tiếp nổ ra nhiều cuộc biểu tình kêu sưu, tuy quy mô không lớn như ở trong Nam – Ngãi, nhưng đã có sự tổ chức khá thống nhất của Duy Tân hội. Các cuộc biểu tình đó lại sớm tan rã khi vấp phải sự đối phó của kẻ thù. Kết quả này có nhiều lý do, nhưng cơ bản vì sự liên hệ của Duy Tân hội vội vã, thiếu chặt chẽ.
Có một điểm nữa cần được nhấn mạnh, đó là những cuộc biểu tình chống thuế ở Hà Tĩnh nổ ra muộn, nhưng rất quyết liệt và đặc biệt có sự chuẩn bị từ trước, chứ không tự phát như ở Nam – Ngãi. Thực ra đó chỉ là bề mặt của một âm mưu khởi nghĩa do các đảng viên Duy Tân hội trong tỉnh chủ trì.
Từ đầu năm 1908, trong lúc ở nước ngoài (Nhật Bản và Trung Quốc) thực dân Pháp đang ráo riết tìm cách dập tắt phong trào Đông Du thì các thủ lĩnh Duy Tân hội ở Nghệ - Tĩnh đã chuẩn bị lực lượng, đánh úp các tỉnh thành ở đây, đánh thành Nghệ An, thành Hà Tĩnh, có kế hoạch cướp trại lính, phá ngục giải thoát các tù nhân. Kết quả là do tổ chức lỏng lẻo nên các cơ hội chính trị mà phong trào chống thuế tạo nên đã không được Duy Tân hội sử dụng có kết quả. Rõ ràng là sự kết hợp chặt chẽ giữa các cuộc biểu tình chống thuế ôn hoà với hình thức khởi nghĩa vũ trang là nét đặc sắc nhất của phong trào yêu nước Nghệ - Tĩnh trong tháng 5 - 1908. Giáo sư Trần Văn Giàu nhận xét rằng: “… Hễ càng xa thì càng mất đà, nhưng đến Nghệ An thì phong trào biến thành vũ trang khởi nghĩa” (4).
Phong trào chống thuế ở Nghệ - Tĩnh là hiện tượng đẹp nhất thể hiện sự kết hợp lực lượng của hai phái bạo động và cải lương. Cho nên mặc dù phong trào ở đây nổ ra muộn, số lượng các cuộc biểu tình không lớn, nhưng lại bị địch đàn áp rất dữ dội. Thực dân Pháp cũng lợi dụng cơ hội này để đàn áp dã man phong trào yêu nước ở Nghệ - Tĩnh. Nghệ Tĩnh là địa phương có con số chịu án lớn nhất, trong số đó có nhiều bị phát phối ra Côn Đảo, mức tuyên án cũng nặng hơn các nơi khác từ chung thân đến khổ sai 9 năm. Đặc biệt có hai án tử hình là Nguyễn Hàng Chi và Trịnh Khắc Lập.
Trên đà lan truyền, phong trào yêu nước miền Trung cuối cùng ra tới Thanh Hoá (tháng 5 - 1908). Nhận xét đầu tiên là phong trào yêu nước tỉnh Thanh Hoá nổ ra muộn hơn so với phong trào các tỉnh khác, lúc phong trào chung toàn miền đang trong thời kỳ suy yếu dần, mất dần tính bạo động kịch liệt như phong trào Nam – Ngãi hay phong trào Nghệ - Tĩnh, mà ngày càng mang đậm tính cải cách, đổi mới. Điều này cũng dễ giải thích. Vào những năm đầu thế kỷ XX, sau khi phong trào Cần Vương của Thanh Hoá đều bị triệt hạ và trong hoàn cảnh lịch sử mới, phong trào yêu nước tỉnh Thanh Hoá ngày càng chuyển sang xu hướng cải cách. Đó là chưa nói rằng bản thân phong trào yêu nước tỉnh Thanh Hoá cũng có những chuyển biến bên trong, do các điều kiện mới, khách quan và chủ quan quyết định. Cứ xem các thành phần tham gia phong trào Thanh Hoá lúc này thì thấy, ngoài một số văn thân nho sĩ ở Nam - Ngãi và Nghệ - Tĩnh (như các cử nhân Hoàng Văn Khải, Nguyễn Soạn, Lê Trọng Nhị, Nguyễn Xứng; tú tải Lê Nguyễn Thành, Lê Duy Tá, Nguyễn Lợi Thiếp…) đã có một số nhân vật mới xuất hiện trong xã hội Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX, như thông sự Nguyễn Chí Tín (Tiến), là con của Nguyễn Dự Hàm, người xã Đông Ngạc, tỉnh Hà Đông, vào làm việc tại Thanh Hoá. Nguyễn Dự hàm lại là một hội viên tích cực của phong trào Duy Tân ở ngoài Bắc, mà trung tâm lúc đó là Đông Kinh Nghĩa Thục. Rõ ràng là do các điều kiện gắn liền với Thanh Hoá, nên việc chịu ảnh hưởng tính bạo động của phong trào chống thuế Nam - Ngãi và Nghệ - Tĩnh đã yếu đi và nghiêng về phía Duy Tân cải cách. Trong vấn đề này, ảnh hưởng của Đông Kinh Nghĩa Thục từ ngoài Bắc tràn vào có ý nghĩa quyết định. Tất nhiên là một phong trào duy tân, cải cách như Đông Kinh Nghĩa Thục trên bước đường phát triển, đặt trong hoàn cảnh Việt Nam mà mâu thuẫn dân tộc với đế quốc là không thể điều hoà thì cuối cùng cũng sẽ đi tới bạo động, thực dân Pháp đã chẳng sớm nhận thấy rằng: “… không còn nghi ngờ gì nữa, Đông Kinh Nghĩa Thục đã là cái lò phiến loạn ở Bắc kỳ” nên thẳng tay đàn áp một cách quyết liệt. Chỉ có thế mới có thể giải thích được hiện tượng là phong trào Thanh Hoá không diễn ra quyết liệt với những hình thức bạo động, trực diện đấu tranh như biểu tình, xung đột, bắt trói quan lại… nhưng những người bị bắt đều bị kết án rất nặng, xử trượng, trảm giam hậu, sau cải khổ dài hạn, đày ra Côn Đảo.
Đối với phong trào ở Thanh Hoá, lâu nay giới nghiên cứu chưa quan tâm đúng mức, nên các tư liệu sưu tầm chưa được đầy đủ. Một phần do phong trào ở Thanh Hoá chưa kịp phát động thì những người cầm đầu đã bị bắt sau cuộc họp chuẩn bị, do có kẻ tố giác. Do vậy mà trên sách báo đương thời kể cả trong hồ sơ của thực dân Pháp, cũng không nói đến nên chưa gây được sự chú ý của công luận. Gần đây, trong việc biên soạn lịch sử tỉnh Thanh Hoá, nhiều tư liệu đã được phát hiện, đặc biệt hậu duệ của các dòng họ sĩ phu yêu nước đã dày công tìm hiểu tư liệu, dựng lại chân dung của cha ông mình. Do vậy mà những tấm gương đấu tranh của các sĩ phu Thanh Hoá trong những năm đầu thế kỷ XX và cả những năm sau này, dần dần được làm sáng tỏ. Đây sẽ là cơ sở để chúng ta vinh danh những nhân vật, đã có nhiều đóng góp cho việc bồi dưỡng tinh thần yêu nước của nhân dân Thanh Hoá trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Chú thích:
1. N. Q. Thắng,Huỳnh Thúc Kháng, con người và thơ văn, Sài Gòn, 1972, tr 321.
2. Nguyễn Văn Xuân,Phong trào Duy Tân, Nxb Lá Bối, Sài Gòn, 1970.
3. Nguyễn Thế Anh,Phong trào kháng chiến miền Trung năm 1968 qua các Châu bản triều Duy Tân, bản án số 43a, 40b, Sài Gòn, tr 133 – 135.
4. Trần Văn Giàu,hệ thức tư sản và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, Hà Nội 1985, tr 33.