Tây Bắc trong mối quan hệ với các vùgn trong và ngoài nước
Như vậy, để tăng nguồn thu quốc khố, cùng với việc coi trọng vai trò của kinh tế nông nghiệp, thực thi chính sách khuyến nông, nhà Lý cũng rất chú trọng đến việc khai thác, quản lý nguồn lợi tự nhiên, ngành khai thác mỏ, sản xuất thủ công, các nguồn lâm thổ, hải sản và giao thương với các nước. Vượt ra khỏi phạm vi châu thổ sông Hồng, ngay từ những năm đầu tiên của triều đại mới, người đứng đầu vương triều Lý đã có tầm nhìn xa rộng, thiết lập phạm vi kiểm soát ở nhiều vùng biên viễn. Tiếp bước tiên vương, các vua Lý Thánh Tông (cq: 1054 - 1072), Lý Nhân Tông (cq: 1072 - 1127), “một vua giỏi của triều Lý”, đã sai người đi khai mỏ bạc ở huyện Hạ Liên, mỏ vàng ở động Vũ Kiện, Quảng Nguyên…
Bên cạnh đó, để tăng cường quan hệ đối ngoại, tháng Chạp năm 1044 thời vua Lý Thái Tông (cq: 1028 - 1054), nhà Lý đã cho “đặt trạm Hoài Viễn (Hoài Viễn dịch) ở Gia Lâm để cho khách sứ bốn phương tới trú ngụ” (2). 7 năm sau, vị vua anh minh của triều Lý lại cho đặt trấn Vọng Quốc ở 7 trạm: Quy Đức, Bảo Khang, Tuyên Hóa, Thanh Bình, Vĩnh Thông, Cảm Hóa, An Dân, “mỗi nơi đều dựng mốc tiêu đề để làm nơi trú ngụ cho man di” (3). Hẳn là, qua các quyết sách đó, Thăng Long không chỉ muốn kết giao với các thủ lĩnh, hào tộc vùng biên viễn mà còn qua đó khẳng định vị thế của một chính quyền trung ương tập quyền mạnh” (4).
Trong chính sách đối ngoại, nhà Lý đặc biệt chú trọng đến mối quan hệ với Trung Quốc (nhà Tống), Chiêm Thành và Chân Lạp. Trong những năm sau đó, vương triều này đã thiết lập thêm quan hệ với các nước như Tam Phật Tề, Lộ Lạc, Trảo Oa, Xiêm La, Ai Lao, Ngưu Hống. Sách Hưng hóa phong thổ lục của Hoàng Trọng Chính cho biết năm 1067 nước Ngưu Hống và vua Ai Lao lần đầu tiên đem vàng, bạc, trầm hương, sừng tê giác cống vua Lý. Về sự kiện này, Cương mục ghi rõ: “Tháng 2, mùa xuân (1067), Ngưu Hống và Ai Lao lần đầu tiên tiến cống. Lễ cống gồm có vàng, bạc, trầm hương, sừng tê, ngà voi” (5). Vào thời Lý, chính quyền Thăng Long đã không ngừng mở rộng ảnh hưởng đến các vùng xa xôi. Đến thời Lý Cao Tông (cq: 1176 - 1210), để bảo vệ đặc quyền kinh tế, cũng như để hạn chế những tác động tiêu cực từ môi trường kinh tế khu vực, triều đình Thăng Long đã ra lệnh “Cấm người ta không được đem cá, muối, đồ sắt lên đầu nguồn đổi chác” (6). Nhưng, cùng với các mối giao lưu kinh tế, tuyến biên giới Tây Bắc còn là con đường giao lưu văn hóa. Năm Kỷ Dậu thứ tư (1189) các vị sư người Đại Lý là Huệ Minh và Giới Nhật đến chầu (7). Theoc ác dòng di cư, Phật giáo cũng đã được truyền bá từ Lào và có thể cả từ Miến Điện đến Tây Bắc.
![]() |
Đến thời Trần (1226 - 1400), chính quyền Thăng Long ngày càng có ý thức mạnh mẽ về vị thế chiến lược của vùng Tây Bắc. Nguyễn Bá Thống, một danh Nho thời Trần trong bài Phú Thiên Hưng trấnđã từng ví Hưng Hóa “che giữ cho các trấn như phên, như giậu, án ngữ miền thượng du làm then, làm chốt”. Để bảo vệ vùng biên giới, chính quyền trung ương đã thực thi nhiều biện pháp chính trị, quân sự, ngoại giao và cả hôn nhân để xác lập mối quan hệ mật thiết với các thủ lĩnh địa phương. Vào thời Trần, các tù trưởng người Thái ở Mường Muối (Thuận Châu) mà tiêu biểu là Tà Ngần đều cho rằng họ luôn được chính quyền Thăng Long tin dùng (8). Như vậy, chính quyền Lý, Trần trong khi mở cừa giao thương quốc tế cũng đồng thời có những biện pháp kiểm soát các hoạt động ngoại thương. Trong Dư địa chí và một số nguồn tư liệu khác, chúng ta cũng thấy được tính chất phức tạp trong các mối quan hệ ở vùng biên cương phía Tây Bắc. Ở đó, chính quyền và các thủ lĩnh địa phương phải lo “giữ yên” mối quan hệ với các vương triều phương Bắc, vừa phải tìm cách ứng đối với chính quyền và các thế lực địa phương. Điều đáng chú ý là, mối quan hệ giữa triều đình phương Bắc với các thế lực địa phương luôn ẩn chứa những bất hòa, xung đột. Trong lịch sử Trung Hoa, sau những cuộc chính biến, sụp đổ vương triều… các thế lực thất thế thường chạy về phương Nam để duy trì, củng cố thế lực. Như vậy, cùng với lực lượng bản địa, các thế lực di trú càng làm cho mối quan hệ khu vực trở nên phức tạp.
Phác dựng mối quan hệ giữa vùng Hưng Hóa với miền Tây Nam (Trung Quốc), Nguyễn Trãi cho rằng: “Đại Lý, Lão Qua là tên nước, thuộc tỉnh Vân Nam, là đất nước Thục ngày xưa. Hai nước ấy gần nước ta, thường đến triều cống. Hồi Kê là tên nước. Thời nhà Trần, Tống thường bị người Nguyên xâm lấn, người Tống cho người đem 30 chiến thuyền đến, phụ thuộc nước ta gọi là nước Hồi Kê” (9). Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh đầu thế kỷ XV, thủ lĩnh của người Thái ở châu Mộc là Xa Khả Xâm đã chiêu mộ quân cùng tham gia chiến đấu bảo vệ lãnh thổ của Đại Việt. Sau kháng chiến chống Minh thắng lợi, để giữ yên miền Tây, năm Thuận Thiên thứ 5, Lê Thái Tổ (1385 - 1433) đã thân chinh đi kinh lý vùng Tây Bắc dẹp quân Đèo Cát Hãn. Nhà vua đã để lại bi ký ở thượng nguồn sông Đà (10). Tiếp đó, chính quyền Lê sơ (1428 - 1527) đã đặt chức lưu quan và coi đây là “phên dậu thứ hai ở phía Tây” (11). Thời Lê sơ (1428 - 1527), sau kháng chiến chống Minh, cảnh giác với âm mưu xâm lược, chính quyền Thăng Long đã không cho các khách buôn nước ngoài được tự do vào nội trấn. Tuy nhiên, với vùng Tây Bắc, nhà Lê vẫn cho lập trạm ở Trúc Hoa (Trúc Phê) thuộc trấn Sơn Tây (Hưng Hóa) để đón tiếp khách thương. Chắc hẳn, chức năng cơ bản của trạm này là để kiểm tra, đánh thuế. Như vậy, ngay sau khi nước ta khôi phục được nền tự chủ, các triều đại quân chủ đều rất coi trọng vùng Tây Bắc. Vùng Đà Giang - Hưng Hóa đã trở thành đơn vị hành chính, một khu vực có vị thế trọng yếu của quốc gia Đại Việt.
Thời Lê - Trịnh (1592 - 1789) cùng với việc bảo vệ chủ quyền vùng biên cương phía Bắc, chính quyền Thăng Long cũng đã thực thi nhiều biện pháp vừa mềm dẻo vừa cương quyết với các thế lực vùng biên viễn và chính quyền phương bắc (12). Vùng Tây Bắc không chỉ là mái nhà che chở cho châu thổ Bắc bộ mà còn là môi trường dung dưỡng cho các biến động cho xã hội, kinh tế của miền xuôi. Sau cuộc khởi nghĩa của Hoàng Công Chất (1706? - 1767) (13), để yên lòng dân vùng biên giới, chiêu nạp các thủ lĩnh địa phương đồng thời để chấm dứt tình trạng, “khi theo Lào, lúc phụ về Trung Quốc”, chúa Trịnh đã “tha tội cho các tù trưởng và vẫn cho làm các thổ tù; tha các hạng thuế về năm ấy cho các châu thuộc Hưng Hóa và cả người Nùng cùng các dân Mán, Xá. Lại miễn cho những tiền thuế đã bỏ thiếu từ trước; cấm không được tự tiện mua hàng hóa của nước ngoài. Còn dân châu Mộc, châu Việt đã di cư sang Trung Quốc, cho trở về thuộc quyền quan trấn cai quản. Các thổ binh thì ước tính các suất, chia ra từng hiệu quân để tự coi giữ lấy. Cấm dân các châu Lai, châu Luân, châu Chiêu Tấn, châu Quỳnh Nhai, không được ăn mặc lối Trung Quốc và nộp thuế cho Trung Quốc” (14). Tuy nhiên, trên thực tế, chính quyền Lê - Trịnh đã phải dùng nhiều biện pháp chính trị, quân sự, ngoại giao để giữ yên vùng biên giới. Thanh Đô vương Trịnh Tráng (? - 1657) từng phải nộp thuế 10 châu thuộc đạo Hưng Hóa phong thổ lục doĐại Nam nhất thống chí dẫn lại viết rằng hai động Phong Thu (Phong Thổ) và Bình Lư của châu Chiêu Tấn và động Hòa Lai của Lai Châu đã từng bị quan lại biên giới nước Thanh ép mỗi động hàng năm phải nộp 220 lạng bạc. Ở nhiều vùng biên giới, nhân dân phải thường xuyên “nộp thuế hai nơi”, tức là cho cả chính quyền Trung Quốc (16).
Trong các mối quan hệ chính trị, xã hội phức tạp, để duy trì sự ổn định ở vùng biên, chính quyền Lê - Trịnh đã cấm các thổ tù không được cướp bóc, gây mối thù hận. Tuy luôn tỏ thái độ tôn trọng “quyền tự trị” của các thủ lĩnh địa phương nhưng trong không ít trường hợp, để thể hiện uy lực của chính quyền trung ương, triều đình Thăng Long cũng quy định nếu không có sự chấp thuận của triều đình thì không được tự ý chuyển quyền lực cho con… Như vậy, bằng các biện pháp chính trị, chính quyền Thăng Long đã có thể chi phối truyền thống thế tập của các dòng họ lớn, đồng thời là các thế lực vùng biên viễn. Với các biện pháp đó, “Từ đó, trấn Hưng Hóa được yên” (17).
Trong suốt quá trình vận động, phát triển của lịch sử dân tộc, miền núi Tây Bắc luôn gắn bó với trung tâm Thăng Long của đất nước. Nhiều hoạt động của kinh tế, xã hội của trung tâm chính trị Thăng Long luôn giữ mối liên hệ mật thiết với vùng Tây Bắc, với các thủ lĩnh người Thái, người Mường. Sự xuất lộ của các hiện vật gốm sứ Hizen trong mộ tộc trưởng họ Đinh (cụ Đinh Văn Kỷ) ở Mường Động (Kim Bôi, Hòa Bình) đã cho thấy rõ điều đó. Theo các nguồn tư liệu lịch sử, năm 1647, lần đầu tiên Nhật Bản đã xuất khẩu gốm sứ Hizen ra nước ngoài. Các hiện vật gốm sứ đó đã được đưa đến Đại Việt, Thăng Long và ngay lập tức được chuyển đến (có thể là một trong những vật tặng phẩm của chính quyền Lê - Trịnh) chô quý tộc họ Đinh. Sự xuất hiện của các sản phẩm ngoại nhập ở Mường Động không chỉ cho thấy mối liên hệ mật thiết giữa chính quyền trung ương với các thế lực địa phương, giữa nội vùng với ngoại vi mà còn góp phần quan trọng trong việc nghiên cứu mối quan hệ Việt - Nhật, xác định vị trí của Việt Nam trong tuyến hải thương Đông Á, đồng thời làm sáng tỏ lịch sử phát triển của gốm sứ Hizen, một ngành kinh tế đối ngoại hết sức quan trọng của Nhật Bản vào nửa sau hế kỷ XVII (18).
Trong thời gian từ thế kỷ XVIII - XIX, ở vùng Tây Bắc đã hình thành nhiều trung tâm kinh tế. Đến thế kỷ XVIII, cương vực lãnh thổ không ngừng được mở rộng. Tác Kiến văn tiểu lục xác định: “Đất Mường Thanh giáp với Trung Quốc là Xa Lý thuộc Nam Man; đất Mường Son giáp với các bộ Bồn Man, Thanh Hóa” (19). Bên cạnh đó: “Mường Trình - Điên Chiên giáp với 2 châu Chiêu Tấn và Quảng Lăng, có một con đường thông sang các nước Lao Lung và Bồn Man, người Trung Quốc cũng phần nhiều đi lại buôn bán các thứ ngà voi, tê giác, nhung hươu và vỏ quế. Hỏi người địa phương, họ nói, nếu đặt một cửa quan ở chỗ này, giao cho thổ quan Chiêu Tấn thu thuế, mỗi năm có thể thu được 200 quan” (20). Theo các sử gia triều Nguyễn thì châu Ninh Biên (Mường Thanh) phía trên giáp với sông Nậu (tức sông Nặm U) và các nước Nam Man, Xa Lý, phía dưới giáp với châu Tuân Giáo, phía tả giáp với Ai Lao, phía hữu giáp với châu Lai, địa thế rộng rãi, hiểm trở, từ giữa châu đi ra bốn mặt đều chỉ mất một ngày đường. Mường Thanh là một nơi đô hội, ở đó có “đồn Ba vạn” vì có thể chứa được 3 vạn nhà. Bắc thành địa dư chí cũng nói trong thành có 3 vạn cối giã gạo cho quân. Ở Mường Thanh, “người Thanh, người Ai Lao, người Nam Man và Xa Lý tụ họp buôn bán, là một đô hội ở ngoài biên” (21).
Trong sự phát triển chung của đất nước, do có tiềm năng kinh tế, vùng Hưng Hóa dần hình thành một số trung tâm giao thương. Trong đó phải kể đến phố chợ ở xã Trúc Phê, huyện Tam Nông, chợ Quỳnh Lâm thuộc huyện Thanh Thủy, chợ Quang Huy ở châu Phù Yên, chợ Bách Lẫm ở huyện Trấn Yên, phố Bảo Thắng ở châu Thủy Vĩ. Phố lập ở sông Thao và sông Ngân hợp lưu, giáp cửa Hà Khẩu của Trung Quốc, Vạn Na Hàm ở châu Quỳnh Nhai. Các trung tâm kinh tế đó không chỉ giữ vai trò lưu thông hàng hóa giữa các khu vực miền núi mà còn giữa miền núi với miền xuôi, giữa trong nước với các quốc gia láng giềng khu vực. Trong Lịch triều hiến chương loại chí, tác giả Phan Huy Chú từng xác nhận: “Những người đi buôn lên thượng du mua hàng hóa về, bán được lãi nhiều” (22). Chỉ riêng việc thu thuế muối ở cửa khẩu Thủy Vĩ, giáp với nước Thanh mỗi năm cũng thu được 1.000 lạng bạc (23).
Bên cạnh đó, để tăng cường sức mạnh kinh tế cho đất nước, vào thời Nguyễn chính quyền trung ương cũng như địa phương đã có nhiều biện pháp để khuyến khích việc khai mỏ. Theo Đại Nam hội điển (Q. 42) thì trong khoảng nửa đầu thế kỷ XIX, từ 1802 đến 1851, tổng số mỏ được khai là 124 mỏ. Trong đó có: 34 mỏ vàng, 29 mỏ sắt, 20 mỏ diêm tiêu, 14 mỏ bạc, 9 mỏ đồng, 7 mỏ kẽm, 4 mỏ chì, 3 mỏ gang (?), 2 mỏ lưu hoàng, 1 mỏ thiếc, 1 mỏ châu sa. Theo thống kê, miền Tuyên, Hưng, Thái, Lạng có đến 92 mỏ, chiếm 74% tổng số mỏ cả nước thời bấy giờ (24).
Điều đáng chú ý là, cùng với các mỏ do Nhà nước trực tiếp khai thác còn có các mỏ do thổ tù các dân tộc thiểu số, chủ mỏ người Việt và Hoa kiểu lĩnh trưng. Từ giữa thế kỷ XVII, sau sự sụp đổ của nhà Minh (1368 - 1644), sổ Hoa kiều di cư sang nước ta ngày một đông. Ngô Thì Sĩ từng nhận xét: “Người khách đến ngụ ở nước ta, có hạng khai mỏ lấy của, có hạng thuê ruộng cày cấy, có hạng đi lại mà buôn, có hạng ở lẫn lộn với dân ta, có hạng thành lập xóm riêng, đâu đâu cũng mà ở 6 trấn Lạng, Thái, Tuyên, Hưng, Cao, Quảng càng nhiều” (25). Theo tính toán, tổng số người Hoa ở 6 trấn trên có đến 5 đến 6 vạn. Họ chủ yếu làm nghề khai mỏ. Vì lợi ích kinh tế, nhiều viên quan giám quản của các trường mỏ và thổ tù địa phương đã chiêu mộ người Hoa sang khai mỏ để tăng thêm số thuế. Tại nhiều vùng biên giới, Hoa kiều sống thành cộng đồng cư dân đông đúc, lập chợ, lập phố, xây dựng cơ sở tôn giáo. Do vậy năm 1717, sợ “sinh biến”, chúa Trịnh đã quy định hạn chế mỗi mỏ chỉ được chiêu nạp từ 100 đến 300 người (26). Tuy nhiên, vì những lợi ích kinh tế, nhiều chủ mỏ vẫn tìm cách bảo lãnh, dung túng cho một số lượng lớn người Hoa sang nước ta khai mỏ. Có nơi như ở đồng Tụ Long tập trung đến 3.000 - 4.000 người. Năm 1839, Minh Mạng đã ra lệnh cho các tỉnh biên giới phía Bắc chỉ được phép cho Hoa kiều sang “làm thuê và buôn bán” và chỉ được dùng vàng, bạc tiêu dùng trong nước chứ không được đem qua biên giới, người nào vi phạm sẽ bị phạt 100 trượng, tịch thu vàng, bạc và tùy theo số vàng bạc ít hay nhiều mà quy định mức phạt: từ 50 đến 120 lạng thì cứ 10 lạng gia tăng thêm một bậc, từ 120 lạng trở lên thì bị xử giảo giam hậu (27). Trên thực tế, các biện pháp đó chỉ có ý nghĩa hạn chế chứ không thể ngăn chặn tuyệt đối việc chuyên chở kim loại quý của nước ta về Trung Quốc. Hệ quả là, nhiều mỏ tài nguyên quý đã bị khai thác cùng kiệt. Hiện tượng “chảy máu kim loại” diễn ra hết sức nghiêm trọng. Môi trường tự nhiên bị hủy hoại (28). Cùng với những hạn chế, sai lầm trong việc thực thi chính sách khai mỏ của vương triều Nguyễn, việc chính quyền đô hộ Pháp để mất mỏ đồng Tụ Long về tay nhà Thanh năm 1885 là một tổn thất trong việc giải quyết vấn đề biên giới và các mối quan hệ khu vực.
Chú thích:
1. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, Nxb Khoa học xã hội, H., 1993, tr 243.
2. GS. Trần Quốc Vượng dịch, Việt sử lược, Nxb Thuận Hóa - TT Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2005, tr 85.
3. Việt sử lược, sđd, tr 86.
4. Nguyễn Văn Kim, Thương cảng Vân Đồn và quan hệ ngoại thương thời Lý, UBND Tp Hà Nội: “1.000 năm vương triều Lý và kinh đông Thăng Long”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Nxb Thế giới, H., 2009, tr 527.
5. Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập I, Sđd, tr 343.
6. Việt sử lược, Sđd, tr 157
7. Việt sử lược, Sđd, tr 161.
8. Quám Tố Mướm đã ghi lại ảnh hưởng của Tà Ngần (cuối thế kỷ XIV) ở Mường Muối: “Như vậy, Tà Ngần được vua tin dùng, Phạ nhấu (vua Lào) kính nể, vua Kinh ban cho làm “chúa” cai quản cả một vùng rộng lớn… Từ miền người Mọi, người Mang ở Mường Pi, Mường Sang đến vùng đất thuộc đầu sông Thao nước đỏ. Từ miền Châu Nhi, Châu Phụng, Che Lạn, Chiếng Luống đến tận đất đầu sông Đà và sông Nặm Na. Một dải đất dọc sông Mã đến những miền thượng sông Nặm U… Tà Ngần xây dựng bản, mường có lời khuyên răn mọi người: đầu bản cuối mường đều là cánh phải, cánh trái của Mường Muối. Người đứng đầu các mường không được tranh giành nhau làm bản mường loạn lạc, dân đói khổ tan tác. Hàng năm phải nộp cống vật cho Mường Muối để “chúa” đem về xuôi dâng cho nhà vua. Dẫn theo Cầm Trọng, người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, Sđd, tr 67 - 68.
9. Nguyễn Trãi toàn tập, Tập II, Sđd, tr 467. Đại Lý là tên một nước ở Vân Nam. Theo Minh sử, Vân Nam thổ ty truyện, nước Đại Lý là đất huyện Diệp Du thời Đường. Cuối niên hiệu Khai Nguyên (713 - 741), Bi La Các người Mông Chiếu đóng đô ở đây nên gọi là Nam Chiều, đặt quốc hiệu Đại Mông rồi đổi ra Đại Lễ. Đến triều Tấn (936 - 946), Đoàn Tư Bình lên cầm quyền, đổi gọi là nước Đại Lý. Khoảng niên hiệu Hồng Vũ (1368 - 1398) nhà Minh, Đoàn Thế bị bắt, nhà Minh đổi nước ấy làm phủ Đại Lý, đặt vệ quan và chỉ huy sứ thuộc Vân Nam. Còn Lão Qua tức nước Lào. Dẫn theo chú giải của Gs. Hà Văn Tấn, Nguyễn Trãi toàn tập, tập II, Sđdm tr 541.
10. Đại Nam nhất thống chí, tập IV, 1997, tr 322. Năm 1440 thời vua Lê Thái Tông nhà vua lại thân chinh lên Mường Muối trừng phạt Thượng Nghiễm, đem quân theo Ai Lao chống lại triều đình. Trên đường trở về, tại vách hang đá phía trước có suối Nậm La, nhà vua đã cho khắc bia “Quế Lâm động chủ ngự chế”. Xem Xuân Tưởng, Sơn La xây dựng đền thờ vua Lê Thái Tông, Tạp chí Xưa & Nay, số 103, tháng 11 - 2011, tr 17.
11. Nguyễn Trãi toàn tập, Tập II, Sđd, tr 466.
12. Sau khi Mạc Đăng Dung giành được quyền lực, An Thành hầu Nguyễn Kim, vốn là Thanh Hoa hữu vệ điện tiền tướng quân của triều Lê, được sự giúp đỡ của vua Ai Lao, đã bí mật xây dựng lực lượng ở Sầm Châu (Sầm Nưa, Lào). Năm 1533, Nguyễn Kim đã đón Lê Duy Ninh (tức Lê Trang Tông, 1533 - 1549) sang AI Lao, tôn lên làm vua, lập lại triều Lê.
13. Đặng Nghiêm Vạn, Những hoạt động của Hoàng Công Chất trong thời kỳ ở Tây Bắc, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 81, 1965, tr 50 - 54. Tương Hữu Thiêm, Ai về Bản Phủ - Mường Thanh, Tạp chí Xưa & Nay, số 49, tháng 3 - 1998, tr 10 - 11.
14. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, tập I, Sđd, tr 167. Hoàng Công Chất (con là Công Toản) ở Mường Thanh từ năm 1754 - 1769. Năm Cảnh Hưng 38 (1777) triều đình đặt cho Mường Thanh là châu Ninh Biên thuộc phủ Yên Tây. Ninh Biên gồm 12 mường nhỏ, phía trên giáp với Nâu Giang (Nậm U), và các nước Nam Man, Xa Lý (miền Phong Sa Ly), dưới tiếp giáp với Tuần Giáo, tả tiếp giáp với Ai Lao, hữu tiếp giáp với Lai Châu. Năm 1841, nhà Nguyễn lập ra phủ Điện Biên gồm châu Ninh Biên, Tuần Giáo và Lai Châu, lỵ sở ở châu Ninh Biên. Từ đó, Mường Thanh mang tên Điện Biên Phủ.
15. Đến thế kỷ XVIII, ở một số châu giáp biên gới ở Trung Quốc như Lai Châu, Chiêu Tấn… cư dân vừa phải nộp tô, dung cho bản trấn vừa phải nộp thuế lệ tho giới quan lại ở huyện Kiều Thủy, Vân Nam, Trung Quốc.
16. Trong tâm thế của một trí thức, sử gia thời Nguyễn, tác giả Lịch triều hiến chương loại chí cho rằng: “Trong việc trị nước, hòa hiếu với nước láng giềng là việc lớn”. Tác giả cũng cho rằng: “Nước Việt ta có cõi đất phía Nam mà thông hiếu với Trung Hoa, tuy nuôi dân dựng nước có quy mô riêng, nhưng ở trong thì xưng đế mà đối ngoại thì xưng vương, vẫn chịu phong hiệu, xét lý thế thực phải như thế. Cho nên lễ sách phong, lễ cống sính, việc bang giao các đời đều xem là quan trọng. Kỳ gian thể lệ có khinh, có trọng, có giản, có phiền, trước sau hoặc có khác nhau, không thể không biết cho rõ”, Lịch triều hiến chương loại chí, tập II, Sđd, tr 533.
17. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Tập I, Sđd, tr 167.
18. Kikuchi Seiichi, Gốm sứ Hizen phát hiện ở Việt Nam (tiếng Nhật), Hizen Ceramic Export All Over the World, Society of Kyushu Early Modern Ceramic Study, Japan, 2010, p. 123 - 132.
19. Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, Sđd, tr 306.
20. Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, Sđd, tr 311
21. Đại Nam nhất thống chí, tập IV, 1997, tr 293.
22. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Tập II, Sđd, tr 166.
23. Đại Nam nhất thống chí, tập IV, 1997, tr 284.
24. Phan Huy Lê, Tình hình khai mỏ dưới triều Nguyễn; Trong Tìm về cội nguồn, Nxb Thế giới, H., 1998, tr 696 & 698. Tác giả cũng cho biết, đến thế kỷ XIX Hưng Hóa có 4 mỏ vàng: Yết Long, Gia Nguyên, Bản Lỗ; HƯơng Sơn; 2 mỏ bạc: Phú Thành, Ly Bô; 5 mỏ đồng: Trình Lạn, Lai Xương, Phong Dụ, Mạn Đồ, Suối Lẫn; 5 mỏ diêm tiêu: Bảo Đàm, Hiếu Trai, Bản Vĩnh, Trình Ban, Mạn Thầm, Sđd tr 697.
25. Ngô Thì Sĩ, Ngô ngọ phong tập; dẫn theo Phan Huy Lê, tình hình khai mỏ dưới triều Nguyễn, Sđd, tr 736.
26. Việt sử thông giám cương mục, q. 35, 21a. Lịch triều hiến chương loại chí, q. 31. Trong Kiến văn tiểu lục, học giả Lê Quý Đôn cũng cho biết, ở vùng Tây Bắc có người Hóa Thường còn gọi là Nùng Hóa Vi từ Hồ Nam sang “có tài biết được khí sắc vàng, bạc, sắt, đồng, đi đến đâu họp bè bạn, mở phố xá, đào lò nấu quặng, siêng năng và làm việc quanh năm, ăn mặc và cắt tóc như người phương Bắc, không đem vợ con đi theo, chỗ ở sạch sẽ. Thỉnh thoảng trở vê quê đem theo số vàng bạc đã khai lấy được. Họ ở xưởng đồng Long Tụ ước đến 3 - 4.000 người, cũng ở cả Thái Nguyên, Lạng Sơn, Hưng Hóa nữa. Lại có một hạng phu mỏ, người Triều Châu, cũng hay làm việc khai khẩn, nhưng tính tình tham lam, hung hãn, hay tranh cướp, giết người, hạng người này ở Thái Nguyên rất nhiều, Tuyên Quang, Hưng Hóa không có”; Kiến văn tiểu lục, Sđd, tr 334 - 335.
27. Đại Nam hội điền sử lệ, q. 43, 56b - 57a. Dẫn theo Phan Huy Lê, Tình hình khai mỏ dưới triều Nguyễn, Sđd, tr 744.
28. Ngô Thì Sĩ từng ghi lại, ở vùng Cao Bằng và Tuyên Quang, người Hoa “thường từng đoàn năm, mười người đi ra khỏi cửa ải, có khi giả chở sa nhân đi theo đường cái nhưng lén lút nhờ người địa phương chở bạc đi theo đường tắt trong rừng núi; có khi bọn đồn tuần ăn hối lộ cố tình thả chô đi”. Dẫn theo Phan Huy Lê, Tình hình khai mỏ dưới triều Nguyễn, Sđd, tr 744.
29. Đây là trường mỏ lớn nhất nước ta, ở châu Vị Xuyên, Tuyên Quang. Mỏ này có thời gian từng bị thổ ty và quan lại nhà Thanh ở Vân Nam xâm chiếm, đến năm 1728 nhà Thanh mới trả lại. Năm 1757, chúa Trịnh cho thổ tù là Hoàng Văn Kỳ khai thác dưới sự giám sát của các quan biên trấn. Nhưng, đến cuối thế kỷ XIX, sau khi xâm lược nước ta, theo Hiệp ước Thiên Tân ngày 9 - 6 - 1885, thực dân Pháp đã cùng với nhà Thanh phân chia lại đường biên giới. Vùng Tụ Long bị sáp nhập vào phủ Khai Hóa, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc.









