Tài nguyên nước thải
Ở Bombay (Ấn Độ), người ta đã xây dựng được mô hình xử lý nước thải sinh hoạt và canh tác hiệu quả như: Nước thải sinh hoạt → Sục khí → Nuôi bèo tây, bèo tấm → Nuôi cá, tảo → Môi trường
Trước khi sử dụng, nước thải được lắng bùn, bùn được mang đi. Đây là phần “bẩn nhất” của nước thải. Xét về mặt kim loại nặng, bùn này không nên dùng để canh tác thực phẩm, nhưng để trồng cây lấy gỗ, cây làm bóng mát, thậm chí cây cảnh thì vẫn có thể được. Nước thải trước khi nuôi cá được sục khí để làm giàu oxi, để các vi khuẩn háo khí phân huỷ chất hữu cơ, rồi đem trồng cây thuỷ sinh (bèo). Sau khi trồng bèo, nước được dùng để nuôi cá (hay nuôi tảo Chorella, Spirulina). Sau khi nuôi cá, nước thải ra môi trường đạt tương đương loại B của ta (có thể dùng nuôi thuỷ sản). Ngoài bèo ra, nhiều thực vật thuỷ sinh bậc cao như cỏ, cây ngổ… cũng có thể sử dụng để làm sạch nước.
Tuy nhiên, phải lưu ý, sau đó những thực vật đó sẽ được dùng làm gì? Chứ không nên để gây ô nhiễm thứ sinh. Trong số những loại thực vật thuỷ sinh này, bèo sen (bèo tây) có khả năng “hút” chất bẩn tốt hơn cả. Các kim loại nặng trong rễ bèo khá nhiều, không dùng làm thức ăn cho lợn được, nhưng phơi khô để làm thảm thì vẫn được.
Nếu làm phân bón, kim loại nặng có tích tụ trong đất và nước ngầm không? Ảnh hưởng của nó đến cây trồng như thế nào? Hiện nay, khoa học vẫn chưa có câu trả lời thích đáng. Thiết nghĩ, tài nguyên “nước thải” muốn sử dụng cần được nghiên cứu nghiêm túc. Có một nguyên lý là: Tài nguyên càng thô sơ, muốn sử dụng được phải có “hàm lượng chất xám” cao, nghĩa là phải được quan tâm đúng mức về chính sách, về tài chính mới ra được công nghệ thích đáng.
Nguồn: KH&ĐS, số28(1856), 7/4/2006







