Tác động biến đổi khí hậu và sự cần thiết nâng cao nhận thức của cộng đồng xã hội
1. Tác động của biến đổi khí hậu ở Việt Nam .
Tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) diễn biến với mức độ khác nhau đối với nhiều lĩnh vực từ tài nguyên nước, nông - lâm nghiệp, thuỷ hải sản, năng lượng, giao thông vận tải, con người và hầu hết các khu vực địa lý trong cả nước từ vùng Tây Bắc, Đông Bắc, đồng bằng, trung du Bắc Bộ, đồng bằng duyên hải Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ, Tây Nguyên đến Nam Bộ. Theo tính toán, dự báo những năm tới như sau: nhiệt độ trung bình có thể tăng lên 3 0C vào năm 2100; lượng mưa có xu thế biến đổi không đồng đều giữa các vùng, có thể tăng (từ 0% đến 10%) vào mùa mưa và giảm (từ 0% đến 5%) vào mùa khô, tính biến động của mùa tăng lên; mực nước biển trung bình trên dải bờ biển có thể dâng lên 1m vào năm 2100. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới năm 2007, Việt Nam là một trong số các nước sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng của BĐKH và nước biển dâng; trong đó, vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long bị ngập chìm nhiều nhất. Nếu mực nước biển dâng 1m sẽ có 10% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp, tổn thất khoảng 10% GDP, nếu nước biển dâng 3m sẽ có khoảng 25% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp và tổn thất khoảng 25% GDP. Như vậy, tác động của BĐKH ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, sự phát triển kinh tế - xã hội và đời sống sinh hoạt của nhiều cộng đồng dân cư.
Thực tế phần lớn các thiên tai tại Việt Nam đều liên quan đến điều kiện thời tiết và những thay đổi của khí hậu. Hàng năm, bão, lũ, hạn hán và các thiên tai gây ra nhiều thiệt hại về người, tài sản và môi trường cho hầu hết các vùng trong cả nước. BĐKH với biểu hiện chính là sự nóng lên toàn cầu và nước biển dâng, đã làm trầm trọng thêm các thảm hoạ thiên nhiên. Có nhiều nghiên cứu về BĐKH đã tác động đến mọi lĩnh vực và ở nhiều địa phương, nhưng thật khó để có thể đưa ra những kết luận chính xác về những tác động này trong tương lai. Tuy nhiên, với một phân tích đơn giản, có thể cho thấy, nếu nhiệt độ tăng thì lượng bốc hơi sẽ tăng theo, dẫn tới lượng hơi ẩm trong không khí nhiều hơn, kéo theo mưa nhiều hơn ở những vùng có mưa nhiều và bốc hơi nhiều gây khô hạn hơn ở những vùng ít mưa. Nhiệt độ nước biển tăng sẽ cung cấp nhiều năng lượng hơn cho bão, như vậy, sẽ làm cho bão xuất hiện nhiều hơn với cường độ mạnh hơn. Nhiệt độ tăng cũng sẽ làm cho nước biển dãn nở, làm tan băng ở các đỉnh núi, ở Greenland và Nam cực, như vậy sẽ làm cho mực nước biển dâng lên.
2. Giải pháp ứng phó và sự cần thiết nâng cao nhận thức của cộng đồng xã hội nhằm ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.
Những phân tích trên cho thấy, BĐKH không chỉ là vấn đề môi trường và không còn là vấn đề riêng lẻ mà chính là vấn đề của phát triển bền vững. Vì thế, ứng phó với BĐKH ngày càng trở thành vấn đề quan trọng. Ứng phó với BĐKH bao gồm cả thích ứng với BĐKH và giảm nhẹ BĐKH.
Thích ứng là một khái niệm rất rộng và là một quá trình, qua đó, con người làm giảm những tác động bất lợi của khí hậu đến sức khoẻ và đời sống, đồng thời, tận dụng những cơ hội mà môi trường khí hậu mang lại. Thích ứng có nghĩa là điều chỉnh, hoặc thụ động, hoặc phản ứng tích cực, hoặc có phòng bị trước được đưa ra với ý nghĩa là giảm thiểu và cải thiện những hậu quả có hại của BĐKH. Thích ứng còn có nghĩa là tất cả những phản ứng đối với BĐKH nhằm làm giảm tính dễ bị tổn thương. Cây cối, động vật và con người không thể tiếp tục tồn tại một cách giản đơn như trước khi có BĐKH, nhưng hoàn toàn có thể thay đổi các hành vi của mình để thích ứng và giảm thiểu các rủi ro từ những thay đổi đó. Ngoài ra, thích ứng còn đòi hỏi sự đánh giá về các công nghệ và các biện pháp khác nhau nhằm phòng tránh những hậu quả bất lợi của BĐKH bằng cách ngăn chặn, hoặc hạn chế chúng như nhanh chóng tạo ra sự thích ứng với BĐKH và phục hồi một cách có hiệu quả sau những tác động của chúng, hay là bằng cách lợi dụng những tác động tích cực. Thích ứng còn được xem xét từ quan điểm trái ngược, đối kháng, hay nói cách khác - không có thích ứng. Không có thích ứng có nghĩa là không làm gì để phản ứng lại hoặc phục hồi, bù đắp cho những tác động bất lợi.
Hiểu biết về sự thích ứng với BĐKH có thể được nâng cao bằng cách nghiên cứu kĩ thích ứng với khí hậu hiện tại cũng như với khí hậu trong tương lai. Thích ứng với khí hậu hiện tại không giống như thích ứng với khí hậu trong tương lai và điều đó cũng ảnh hưởng đến quyết định phương thức lựa chọn thích ứng. Nghiên cứu về thích ứng với khí hậu hiện tại chỉ rõ rằng, các hoạt động hiện nay của con người không mang lại kết quả tốt như đáng lẽ phải có. Những thiệt hại nặng nề ngày càng gia tăng do các thiên tai lớn, các thảm hoạ thiên nhiên luôn đi kèm với các hiện tượng bất thường của khí quyển. Tuy nhiên, không thể quy hết những thiệt hại này chỉ do những hiện tượng đó mà còn do sự thiếu sót trong chính sách thích ứng của con người, trong một số trường hợp, sự thiếu sót đó còn gia tăng thiệt hại.
Thích ứng diễn ra ở cả trong tự nhiên và hệ thống kinh tế - xã hội. Tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội đều phải thích ứng ở một mức độ nhất định với BĐKH. Và ngay cả sự thích ứng này cũng thay đổi để phù hợp với các điều kiện mới của BĐKH. Ví dụ, phải có sự thích ứng của các nông dân, của những người phục vụ nông nghiệp, những người tiêu thụ nông sản và những người hoạch định chính sách nông nghiệp, tóm lại là, tất cả các thành viên liên quan trong hệ thống nông nghiệp thì hệ thống nông nghiệp mới phát triển có hiệu quả được. Điều tương tự cũng diễn ra trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác. Mỗi lĩnh vực thích ứng trong tổng thể và cả trong từng phần cục bộ, đồng thời, cũng thích ứng trong sự liên kết với lĩnh vực khác. Thích ứng với BĐKH là đầu tư tập trung dài hạn và quy mô lớn (như đắp đập, các dự án tưới tiêu bảo vệ vùng ven biển, cầu và hệ thống thoát nước mùa bão) và nếu được quan tâm tính đến trong giai đoạn đầu khi mới quyết định đầu tư thì chi phí đầu tư cho thích ứng sẽ ít tốn kém hơn nhiều so với điều chỉnh sau khi xây dựng. Vì thế, sự thích ứng dài hạn là một quá trình liên tục có liên quan tới hệ sinh thái và các hệ thống kinh tế - xã hội ở mức độ tổng quát. Sự thích ứng, về bản chất là quá trình dẫn tới tiến bộ hoặc tiến hoá. Về lý thuyết, mọi vật và mọi người đều có khả năng thích ứng.
Ở Việt Nam, mặc dù mục tiêu ưu tiên của đất nước là đạt được sự tăng trưởng kinh tế nhanh, nhưng Chính phủ Việt Nam cũng nhận thức được rằng, kiểm soát và giảm hậu quả của thiên tai cũng là một vấn đề then chốt và đã đưa Kế hoạch hành động cho việc phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai vào chương trình nghị sự quốc gia. Tuy nhiên, kế hoạch hành động đó mới chỉ tập trung vào những điều kiện khắc nghiệt của khí hậu trước mắt hơn là phản ứng với trong BĐKH tương lai, kể cả những thiên tai và sự bất ổn có thể làm tổn hại đến sự phát triển bền vững lâu dài của đất nước. Việt Nam đang tiếp tục thực hiện các hoạt động nghiên cứu về thích ứng với BĐKH.Các hoạt động này nhằm trả lời những câu hỏi: những khu vực nào của đất nước sẽ phải chịu ảnh hưởng nhiều nhất của BĐKH; những ngành kinh tế nào sẽ chịu ảnh hưởng xấu; có những hoạt động nào thu được lợi ích từ những hậu quả tiềm tàng của BĐKH; những biện pháp nào có thể giảm được nhiều nhất tính dễ bị tổn thương và làm thế nào để lồng ghép sự thích ứng vào những chiến lược phát triển ưu tiên khác.
![]() |
Những biện pháp truyền thống đối phó với BĐKH như xây dựng hệ thống đê, mương, các công trình điều tiết, phân lũ, dự báo thời tiết... đang được khai thác tích cực. Tuy nhiên, những chiến lược thích ứng với BĐKH hiện nay sẽ thay đổi khái niệm về sự thích ứng từ bị động đối phó thành chủ động phòng ngừa, đưa những ảnh hưởng tiềm ẩn của BĐKH như là một chỉ dẫn quan trọng cho việc hoạch định chính sách, khác với kiểu thích ứng "trông và chờ" truyền thống. Trọng tâm nhất của những phương án thích ứng được nhằm vào những lĩnh vực dễ bị ảnh hưởng nhất của đất nước do BĐKH trong tương lai, bao gồm: tài nguyên nước, nông nghiệp, lâm nghiệp, năng lượng, giao thông vận tải, vùng ven biển…
Những lựa chọn thích ứng cụ thể có thể là rất đa dạng ở những lĩnh vực và cấp độ khác nhau và phụ thuộc rất nhiều vào những chính sách ưu tiên cũng như nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực hiện có. Nhìn chung, một "chính sách đưa việc thích ứng vào trong kế hoạch, phát triển quốc gia" ở cấp trung ương có thể dẫn đến sự thành công trong xây dựng những chiến lược thích ứng ở địa phương, khu vực nhằm cùng cố khả năng thích ứng của đất nước trong mối liên kết với những ưu tiên khác.
Về giảm nhẹ BĐKH, để đáp ứng các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, Việt Nam sẽ tiếp tục khai thác, sử dụng nhiên liệu hoá thạch và hệ quả là sẽ tăng lượng phát thải khí nhà kính. Tuy nhiên, thấy rõ nguy cơ tiềm tàng của BĐKH và ý thức về vai trò củamột bên tham gia Công ước Khí hậu,Việt Nam với điều kiện và khả năng có thể, sẽ xây dựng và thực hiện các giải pháp giảm nhẹ mức phát thải khí nhà kính thông qua chiến lược giảm khí nhà kính trong chương trình mục tiêu quốc gia. Chiến lược giảm phát thải khí nhà kính bao gồm hai vấn đề lớn. Một là,sử dụng các công nghệ có mức phát thải thấp trong sản xuất và sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Hai là,có những chính sách và biện pháp tăng cường bể hấp thụ khí nhà kính, phát triển và bảo vệ rừng, trồng và tái trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Việc giảm nhẹ BĐKH cần được tập trung vào các hoạt động "cùng có lợi", vừa giảm nhẹ được phát thải khí nhà kính vừa mang lại lợi ích kinh tế - xã hội. Giảm nhẹ BĐKH thể hiện sự tích cực của Việt Nam trong thực hiện trách nhiệm chung bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất. Giảm nhẹ BĐKH cũng là điều kiện tiếp nhận sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế về tài chính và chuyển giao công nghệ tiên tiến, đây cũng là cơ hội để đổi mới công nghệ trong nước nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất và tính cạnh tranh trên trường quốc tế. Các hoạt động giảm nhẹ BĐKH cũng có nhiều khả năng hỗ trợ cho việc thích ứng với BĐKH. Ví dụ, việc trồng rừng có tác dụng làm tăng hấp thụ khí nhà kính nhưng cũng có tác dụng rất tốt trong phòng chống thiên tai.
Thoả thuận Copenhagen là một bước tiến trong tháo gỡ bế tắc của quá trình đàm phán nhưng chưa đủ mạnh để có thể bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất. Theo tính toán của các nhà khoa học, nếu các nước không nỗ lực cắt giảm khí nhà kính ngay từ bây giờ thì nhiệt độ trung bình của trái đất có thể tăng thêm 3 0C hoặc hơn nữa vào cuối thế kỉ này. Do đó, Việt Nam cần thực hiện ngay những chương trình hành động thích ứng với những tác động trước mắt của khí hậu và tác động tiềm tàng của BĐKH trong tương lai.
Thực hiện có hiệu quả các giải pháp thích ứng và giảm nhẹ BĐKH nêu trên còn đòi hỏi sự tham gia của cộng đồng dân cư và đồng thuận của toàn xã hội. Muốn vậy, cần nâng cao nhận thức về BĐKH trong xã hội bằng nhiều chương trình, kế hoạch cụ thể từ thông tin, tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông đại chúng đến việc đưa vào chương trình giáo dục các cấp học cùng với giáo dục môi trường, cũng như tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về BĐKH ở những địa phương, những nơi đã và sẽ chịu ảnh hưởng của BĐKH và tổ chức thực tập phòng, tránh ở các cụm, khu dân cư dễ bị tổn thương do tác động trước mắt và tác động tiềm tàng trong tương lai của thiên tai. Đồng thời, một biện pháp đang được các nhà quản lý môi trường quan tâm, đó là nâng cao nhận thức về BĐKH cho cán bộ, công chức phải đi trước một bước và biến nhận thức đó thành hành động từ tuyên truyền, nhắc nhở người dân đến gương mẫu trong các hành vi của mình về thích ứng và giảm nhẹ BĐKH ngay trong công việc quản lý hàng ngày đến việc lồng ghép vào hoạch định chính sách từ cơ sở đến tầm nhìn quốc gia. Để thực hiện biện pháp này, cần đưa chuyên đề về BĐKH vào chương trình bồi dưỡng chuyên viên các cấp đang được tiến hành ở các địa phương, bộ, ngành và Học viện Hành chính, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.









