Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 02/03/2012 21:47 (GMT+7)

Sự hình thành các tổ chức của lao động Việt Nam tại Pháp

Chuẩn bị sân khấu cho các tổ chức của người lao động

Vào đầu thập niên 1920, lao động Việt Nam ở Pháp dường như có rất nhiều điểm chung với sinh viên Việt và các nhà hoạt động chống thực dân. Điều này là do những nỗ lực của Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh trong tương lai, người đã dành nhiều sức lực để xây dựng chiếc cầu nối kết các cộng đồng thuộc địa tại Pháp. Vào năm 1921, ông và các nhà hoạt động khác thành lập Liên hiệp Thuộc địa (Union Intercoloniale), với mục đích đoàn kết các nhóm dân thuộc địa trong cuộc đấu tranh chung giành độc lập từ tay người Pháp (1). Nguyễn Ái Quốc vận dụng tài năng quảng bác của ông để làm việc chung với nhiều người có gốc gác khác nhau: ông thúc đẩy công nhân và sinh viên Việt hợp tác và khuyến khích họ tìm đến những điểm tương đồng với các nhóm dân thuộc địa khác sống dưới sự thống trị của Pháp (2). Là chủ biên của Le Paria, tờ tạp chí hàng tháng của Liên hiệp Thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc kêu gọi công nhân cũng như các nhà hoạt động từ các thuộc địa khác; ông làm việc ngày đêm để phân phát báo bên ngoài khuôn khổ nhà máy nhằm đến được với một lực lượng độc giả rộng rãi hơn. Cuối cùng, tờ báo có khoảng hai ngàn độc giả, bao gồm một số nhỏ ở thuộc địa, mặc dù tạp chí này không bao giờ thực sự là “diễn đàn của người vô sản thuộc địa” như nó tuyên bố (3).

Trớ trêu thay, Bộ Thuộc địa cùng hoạt động để tập hợp các nhóm di dân Việt ở Pháp lại với nhau. Vào năm 1920, bộ này bắt đầu bao cấp, có tài trợ hàng năm gồm 50.000 francs cho AMI, với hy vọng thiết lập được sự kiểm soát đối với nhóm này và mở rộng hội viên cho cả những người không phải là sinh viện. Nhưng như ta sẽ thấy, qua nhiều năm, lao động người Việt có một mối quan hệ đầy trắc trở với AMI.

Lao động người Việt ở Pháp có những mối quan ngại mà cả AMI và Liên hiệp Thuộc địa đều không mấy lưu tâm, dẫn đến việc công nhân phải thành lập các tổ chức của riêng họ. Trong số đó, hai tổ chức lớn nhất là Hiệp hội Các nhà Đầu bếp và Hiệp hội chung Đông Dương, đều đóng tại Paris (4). Vào đầu những năm 1920, nhiều hội viên của các tổ chức lao động này duy trì liên hệ mật thiết với Liên hiệp Thuộc địa và ĐCS Pháp, trong khi những người khác lại liên kết với ai thì họ cũng phát biểu rõ ngay từ đầu là họ có mục đích và những mối quan tâm riêng (5).

Quan hệ giữa người Việt Namở Pháp trở lên ngày một tồi tệ sau khi Nguyễn Ái Quốc rời Pháp đi Moscow vào năm 1923. Người được chính Nguyễn Ái Quốc chọn thay mình là Nguyễn Thế Truyền, không chia sẽ cả tài năng lẫn những mối ưu tiên của vị tiền nhiệm. Là cháu của một tuần phủ và được đào tạo làm một kỹ sư hóa học, Nguyễn Thế Truyền đưa quan điểm của trí thức vào phong trào chống thực dân Pháp. Không giống Nguyễn Ái Quốc, ông không quan tâm xây dựng mối liên hệ với các phong trào chống thực dân khác trong đế chế Pháp, cũng không thiết tìm cách thu hút người lao động. Nguyễn Ái Quốc đã bỏ nhiều công sức vào Liên hiệp Thuộc địa và tờ Le Paria; tờ này được xuất bản bằng tiếng Pháp, với điểm tựa để có cả tiếng Việt và tiếng Ả-rập. Ngược lại, Nguyễn Thế Truyền sáng lập ra Đảng Độc lập An Nam (Pari Indépendance annamite - PIA) và mở những tờ báo chỉ dành riêng cho người Việt ở Pháp - những di dân mang mục đích dân tộc hơn là liên thuộc địa (6).

Tờ báo đầu tiên của Nguyễn Thế Truyền, Việt Nam Hồn, xuất bản bằng tiếng Pháp, chữ Quốc ngữ và chứ Hán - tất cả những ngôn ngữ được dạy cho người Việt thời đó. Tờ báo tiếp sau đó của ông, Phục Quốc, in song ngữ tiếng Pháp và tiếng Việt; rồi ông bắt đầu xuất bản báo chỉ bằng tiếng Pháp - vì báo tiếng Pháp ít bị kiểm duyệt (7)(cũng như ở thuộc địa, nhà cầm quyền Pháp khoan dung với những tư tưởng cấp tiến được thể hiện bằng tiếng Pháp hơn là bằng tiếng Việt, bất kể chủng tộc của người viết). Những tờ báo tiếng Pháp này, L’Ame annamite (Dân tộc An Nam ), được viết cho lớp độc giả người Việt thạo tiếng Pháp, và do đó phần lớn người lao động không đọc được. Các nhà xuất bản có tìm đến công nhân để được tài trợ, quảng bá và nhắc chung chung đến nhu cầu hợp tác (8). Nhưng họ không tìm đến công nhân để tham vấn về tư tưởng.

Dù nuôi dưỡng mục đích dân tộc chủ nghĩa, Nguyễn Thế Truyền đã quản lý không tốt mối quan hệ với những người Việt thuộc tầng lớp lao động. Ông có tiếng là “ngạo mạn”; ông khăng khăng dùng tiếng Pháp ngay cả khi nói chuyện với những công nhân người Việt không thạo tiếng Pháp, và ông nổi tiếng là thiếu quan tâm tới những mỗi bận tâm bình thường của người lao động (9).

Chẳng hạn, vào năm 1925, ĐCS Pháp yêu cầu Liên hiệp Thuộc địa đề xuất một con số nhất định các ứng cử viên thuộc địa cho các cuộc bầu cử cấp thành phố. ĐCS Pháp bối rối trước các chỉ trích rằng mình có tiếng là chậm chạp trước các vấn đề thuộc địa và muốn có thêm một số gương mặt không phải là da trắng trong các ứng cử viên của mình (10). Giữa những quan ngại là được mời cho có, các nhà hoạt động Abdelkader Hadj Ali, Lamine Senghor và Max Clainville-Bloncourt miễn cưỡng đồng ý tham gia tranh cử (11). Để có được ứng cử viên từ Đông Dương, Nguyễn Thế Truyền chọn Võ Thành Long, một thành viên người Việt có nhiều triển vọng của Liên hiệp Thuộc địa và một chức sắc của Hiệp hội những người bạn Đông Dương. Tuy nhiên, Võ Thành Long từ chối ra ứng cử, viện lẽ là ông ta “không có phương tiện cũng như tài năng cần thiết để tiến hành một chiến dịch như vậy; hơn nữa, ông lại là một viên chức trong bộ máy hành chính Pháp và việc [ra ứng cử] ấy có thể gây rắc rối cho việc làm của ông” (12).

Từ cuộc trao đổi này, ta có thể hiểu được một chút về quan hệ của Nguyễn Thế Truyền với những người Việt khác ở Paris . Trong số những người ông tiếp xúc hàng ngày, hẳn có rất nhiều sinh viên ông có thể thuyết phục đứng ra tranh cử, nhưng ĐCS Pháp lại muốn có một công nhân. Dưới áp lực đó, ông chọn Võ Thành Long, một viên chức cổ cồn thay vì một người lao động chân tay. Võ Thành Long có thể nổi bật lên vì ông ta đã là hội viên của Liên hiệp thuộc địa, vì ông đã đi học ở Sài Gòn và nói thạo tiếng Pháp, hoặc có thể vì ông có nghề nghiệp đứng đắn và ổn định. Tất cả những điều đó và nhiều khía cạnh khác đã khiến Võ Thanh Long trở thành một thành viên khá dị thường của Hiệp hội Lao động chân tay (Tra-vailleur Manuels). Trong những nét riêng biệt đó, có chi tiết là Võ Thành Long xuất thân từ Trung kỳ, trong khi phần lớn công nhân là người Bắc kỳ và phần lớn sinh viên là người Nam kỳ (13). Trước chiến tranh, ông sang Pháp làm người hầu; ông tình nguyện nhập ngũ vào năm 1914, được thưởng Huân chương Chiến tranh (Croix de guerre) vì bị thương trong một trận đánh năm 1915, rồi sau đó nhận được học bổng của chính phủ để học tiếng Pháp. Sau khi hết học bổng, các viên chức thuộc địa gây áp lực hòng ép ông về nước. Nhưng thay vì hồi hương, ông mở một tiệm ăn có tên L’Indochinois (Người Đông Dương) ở vùng tây nam ở Pháp và đính hôn với một công nhân xưởng máy người Pháp trước khi trở lại Paris và giành được một vị trí trong bộ máy hành chính (14). Tiểu sử đặc biệt này khiến Võ Thành Long trở thành một lựa chọn kỳ quặc nếu ĐCS Pháp muổn mở rộng cầu nối với người lao động người Việt ở Pháp và qua đó khiến họ thấy được hoan nghênh hơn. Hơn nữa, bằng việc từ chối tranh cử, Võ Thành Long hình như không ngại rằng bản thân, hay tổ chức của mình sẽ có lúc cần đến sự giúp đỡ của ĐCS Pháp.

Mầm mống các tổ chức của lao động người Việt tại Pháp

Mục tiêu của những tổ chức lao động người Việt này là gì, và chúng khác với các nhóm chính trị công khai hơn, chẳng hạn như PIA của Nguyễn Thế Truyền, như thế nào? Hiệp hội Các nhà Đầu bếp được thành lập vào năm 1922 và phát triển trong những năm tiếp theo, tới vài trăm hội viên, chủ yếu là các đầu bếp hoặc gia nhân Việt (15). Phần lớn trong số họ sang Pháp khi chủ Pháp của họ từ thuộc địa quay về nước, mặc dù họ thường chuyển sang làm ở một nhà mới sau khi đã đến Paris được một thời gian. Hội này lúc ban đầu vừa là một tổ chức xã hội, vừa là một hội tương tế (16). Các hội viên gặp nhau tại một quan café số 27 Đại lộ Hoche, Quận Tám. Địa điểm này được sử dụng cho cả những cuộc họp chính thức và các cuộc tụ tập thân mật. Theo báo cáo của chỉ điểm mật thám, những vấn đề như tiền bạc, công việc kinh doanh, các vụ tai tiếng, thuốc phiện và phụ nữ đều đóng vai trò lớn ngang với chính trị trong các cuộc trao đổi giữa các đầu bếp người Việt.

Chẳng hạn, vào tháng 11-1924, người ta nghe thấy đầu bếp Philippe Moi khoe tại quán café này là ông ta mới kiếm được 50.000 francs do buôn lậu thuốc phiện và người ta còn nợ ông 8.000 nữa sau chuyến chuyển hàng cuối cùng cho chủ mình là Camille Aymard. Sau tuyên bố này của Philippe, các đồng nghiệp của ông tiếp tục đánh bài, mặc dù cuộc bài bạc vui vẻ chẳng mấy chốc đã biến thành một cuộc cãi lộn ồn ào (17).

Hiệp hội Lao động Chân tay được thành lập vào năm 1923, có 50 hội viên vào đầu tiên và mấy năm sau thì tăng lên 200 (18). Giống như Hiệp hội các đầu bếp, hội này tạo điều kiện cho hội viên giao tiếp và giúp đỡ lẫn nhau. Các nhóm này giành được sự tồn tại hợp pháp nhờ luật của Pháp quy định chức năng xã hội và tính chính đáng của các tổ chức tương tế. Tuy nhiên, về mặt văn hóa, Hiệp hội các đầu bếp và Hiệp hội Lao động Chân tay dựa nhiều hơn vào truyền thống tương trợ lẫn nhau của người Việt, hoặc vào mơ ước chung của các di dân là được tụ họp với những người nói cùng thứ tiếng với họ và chia sẽ những kinh nghiệm tương tự như họ (19).

Hiệp hội Lao động Chân tay bao gồm các thợ sơn, đầu bếp, thư ký, thợ sửa ảnh và thợ cơ khí. Xét cho đúng ra, nhiều người trong số những công nhân Việt này là thợ thủ công hơn là người lao động bình thường, nhưng họ chỉ được trả công nhật từng ngày và không bao giờ biết chắc là hôm sau thì mình có việc làm không (20). Ban đầu, họ gặp ở số nhà 20 phố Colisée, Quận Tám, nhưng sau một năm ở Paris , nhóm này chuyển ra vùng ngoại ô ở Boulogne-sur-Seine, nơi phần lớn các hội viên làm việc tại một nhà máy sơn mài (21). Những người biết chữ viết thư cho bất kỳ ai có thể giúp đỡ các hội viên về mặt vật chất, giúp họ giải quyết các mâu thuẫn với chủ và giúp họ sống sót được qua kỳ thất nghiệp (22). Hiệp hội cũng tập trung tìm kiếm các nguồn tài trợ để giúp đỡ hội viên; việc xuất xứ nguồn tiền là từ các hoạt động tống tiền, buôn lậu, tài trợ của nhà nước hay do các cá nhân đóng góp đề không thành vấn đề (23).

Vào đầu năm 1926, tổ chức này đã thành công trong việc đề nghị nhà nước Pháp trợ cấp cho số tiền 12.000 francs một năm. Những thương lượng cụ thể với chính phủ không được ghi lại trong lưu trữ, nhưng có một tài liệu ghi lại việc Nguyễn Thế Truyền phê phán các hội viên của hội đã hy sinh tự do hoạt động chính trị để đổi lấy trợ cấp. Kế toán của Hiệp hội Lao động Chân tay đập lại rằng với đồng lương của các hội viên như vậy, chỉ cần một trận ốm hay mất việc cũng đủ dẫn đến thảm họa, vì vậy hội rất vui khi nhận được sự giúp đỡ của chính phủ (24). Khoản trợ cấp này đồng nghĩa với việc ban quản trị hội viên bị thất nghiệp, đau ốm, vợ ốm, con thơ… Những yêu cầu đó dường như quá tải với ban quản trị trong việc chọn ra những người thích hợp cần được trợ giúp, dẫn đến vô số các cuộc cãi vã bất tận về việc ai là người quá lười biếng không chịu tìm việc làm hay liệu những cô bồ người Pháp của các hội viên có đáng được nhận trợ giúp hay không. Vào tháng 12-1926, ban quản trị quyết định là tiền sẽ không dùng để trợ giúp những hội viên trong lúc cần thiết nữa, mà sẽ được dùng để trả cho các bữa tiệc mà mọi hội viên đều được mời (25).

Các đảng phái của người lao động

Các đảng phái quan trọng đối với người lao động về nhiều mặt. Trước hết, đảng phái cho phép họ tái lập cảm giác về một cộng đồng xã hội trong những dịp lễ tết quan trọng. Điều này đặc biệt đúng vào dịp Tết Nguyên đán của người Việt. Ở Việt Nam , hội hè thay thế cho tất cả công việc thường nhật trong ít nhất là ba ngày; những công nhân này lẽ ra đã về quê, thăm bạn bè và gia đình, trao đổi quà cáp và ăn những bữa cỗ theo phong tục. Ở Pháp, cuộc sống vẫn trôi đi như ngày thường, và di dân Việt vẫn phải đi làm. Trong hoàn cảnh như vậy, họ cố gắng tụ họp với các đồng hương để cùng nhau ăn Tết. Tuy nhiên, vì những lý do thực tiễn, công nhân thường tổ chức những bữa tiệc lớn vào khoảng thời gian giữa Giáng sinh và đêm giao thừa Tết Dương lịch, khi mọi người (Pháp) xung quanh họ đều đang ăn mừng, và nếu có thức khuya thì cũng dễ ngủ bù hơn.

Trên một bình diện khác, tổ chức những bữa tiệc của riêng mình khiến công nhân cảm thấy được độc lập và tự chủ. Công nhân phàn nàn là họ và gia đình không thể tham gia các bữa tiệc của sinh viên được vì lệ phí vào cửa quá đắt. Vì AMI nhận được khoản “tài trợ tai tiếng” là 50.000 francs, Eti-enne Dumont, vị chủ tịch Việt của Hiệp hội Lao động Chân tay, tuyên bố là giá tiền vào cửa chỉ là một thủ đoạn nhằm ngăn cấm người lao động và những khách nghèo không tham gia tiệc được mà thôi.

Chỉ điểm báo cáo rất nhiều về các bữa tiệc của công nhân, hẳn là vì khó mà bỏ qua những dịp tiệc tùng đó, và lại dễ tham gia mà không gây nghi ngờ gì. Thành phần tham gia tiệc khá hỗn tạp: phần lớn người tham dự là công nhân Việt, nhưng cũng có khá đông bạn bè và các cô bồ người Pháp của họ. Sinh viên và các nhà hoạt động người Việt Nam thường tham gia với một con số khá nhỏ; chủ yếu để ra mắt hoặc quan sát các hoạt động. Đôi khi, một vài nhà hoạt động từ các thuộc địa khác cũng tham gia tiệc.

Bữa tiệc lớn đầu tiên do công nhân tổ chức diễn ra vào tháng 12-1924. Hiệp hội Các nhà Đầu bếp tổ chức một buổi dạ hội vào đêm giao thừa Dương lịch tại Café de Europe ở Quận Bảy (gần Quận Tám). Có khoảng 60 gia nhân Việt và khoảng 40 người khách tham dự. Cũng có 5 hội viên của AMI tới dự và bàn luận về một số chiến dịch chính trị họ đang thực hiện ở thuộc địa nhằm đuổi đại diện người Pháp Ernest Outrey và thay ông ta bằng một người Việt. Cuối phần khiêu vũ, chủ tịch hội Bùi Đức Thành quyên góp tiền cho những nạn nhân của những trận lụt gần đây ở Nam kỳ. Quyên được 109 francs, Bùi Đức Thành tuyên bố là sau khi trừ đi những khoản chi cho dạ tiệc, nếu còn lại được đồng nào thì sẽ gửi hết cho nạn nhân lũ lụt. Ta có thể đoán được là một vài người có mặt ở đó phản đối ngón bịp này của Bùi Đức Thanh, nhưng chỉ điểm không báo cáo về vụ cãi nhau nào vào đêm đó (26).

Nhưng dù có lời qua tiếng lại thế nào chăng nữa, bữa tiệc của các đầu bếp đã để lại ấn tượng tốt cho lao động người Việt ở Pháp. Bữa tiệc trong năm sau còn lớn hơn về quy mô và mang tính chính trị hơn. Hai trăm người Việt và khoảng một trăm vị khách mời của họ đã tập trung tại một tiệm café ở Quận Tám ăn tiệc mừng giao thừa Dương lịch năm 1925. Họ vừa khiêu vũ vừa lắng nghe Bùi Đức Thành phê phán chính sách thuộc địa của Pháp. Tại bữa tiệc này cũng có những người từ các thuộc địa khác của Pháp, bao gồm cả các nhà hoạt động lỗi lạc như Abdelkader Hadj Ali và Lamine Senghor (27). Vào cuối năm 1925, thậm chí ngay cả khi Liên hiệp Thuộc địa của Nguyễn Ái Quốc đang tan rã thì liên minh chính trị liên thuộc địa vẫn còn quan trọng với tổ chức của các đầu bếp người Việt, hoặc ít nhất là theo chỉ điểm của mật thám, những người đã viết báo cáo về các sự kiện này. (Xin lưu ý là các mục đích chính trị này không ngăn cản hội viên trong hội khỏi cãi nhau về chi phí: có hội viên phàn nàn là họ chỉ được uống champagne và ăn bánh mì kẹp trong khi chi phí cao của bữa tiệc lẽ ra đã phải đủ để trả cho một bữa tối đầy đủ (28).

Vào mùa thu đầu năm 1925, người Việt trên khắp thế giới đều kinh qua rất nhiều biến động chính trị. Vị anh hùng dân tộc Phan Bội Châu bị bắt và bị đưa ra xử ở Hà Nội. Vào tháng 11 năm đó, chính trị gia được cho là cấp tiến Alexander Varenne được chọn là toàn quyền mới của Đông Dương, dấy lên niềm hi vọng về những cải tổ chính trị. Ở Paris , một đầu bếp người Việt là Sai Văn Hóa tổ chức một bữa tiệc mừng Varenne trước khi ông lên đường sang thuộc địa. Tại bữa tiệc này, viên toàn quyền mới hứa hẹn với công nhân ở Paris là ông sẽ làm “tất cả mọi việc” vì họ (29). Nhưng Varenne đã mau chóng gây thất vọng cho những người Việt đó. Họ tin rằng ông ta sẽ làm việc với Đảng Lập hiến Việt Nam vốn ôn hòa, để tiến hành những thay đổi to lớn trong chế độ thuộc địa độc tài. Varenne từng hiện thân cho niềm hy vọng rằng con đường cách mạng Phan Bội Châu đã chọn là sai và một cuộc cách mạng bạo lực là không cần thiết. Đối với nhiều người ở Paris , kể cả những người ôn hòa, niềm hy vọng đó bỗng trở thành ấu trĩ.

Một đoàn thể lớn khác của công nhân, Hiệp hội Lao động Chân tay, tổ chức bữa đại tiệc đầu tiên của mình vào năm sau đó. Bữa tiệc được tổ chức vào ngày Noel năm 1926 tại trụ sở của ĐCS Boulogne-Billancourt ở ngoại ô, nơi công nhân gặp gỡ và cũng là nơi làm việc của nhiều người trong số họ. Sau bữa tiệc, nhiều hội viên phàn nàn là bữa tiệc được tổ chức quá muộn nên trẻ con không tham dự được, phòng thì không có hệ thống sưởi, và tiền bạc thì bị lãng phí một cách không cần thiết. Họ phê bình là những người tổ chức không tính toán chu đáo, ám chỉ rằng ban tổ chức đã chọn địa điểm này như một cách chuyển tiền cho các đồng minh cộng sản, hơn là vì sự tiện lợi cho các hội viên với một thời gian thuận tiện hơn (30).

Kỳ lễ tết năm đó, Hiệp hội Các nhà Đầu tư không tổ chức tiệc tùng. Thay vào đó, hội viên để dành tiền để đầu tư mở tiệm ăn của riêng họ ở Khu Latin.

Chú thích:

(1) Liauzu, Aux origins, 105; William J. Duiker, Ho Chi Minh: A Life ( New York : Hyperion, 2000), 78.

(2) Ho Hue Tam Tai, Radicalism, 69-71.

(3) Liauzu, Aux origins, 110-111; Quinn-Judge, Ho Chi Minh, 35-36; Thu Trang-Gaspard, Hồ Chí Minh, 204, 214.

(4) Bản bị chú không ghi ngày tháng về các tổ chức của người Việt ở Pháp, 3 SLOTFOM 4, dossier 46, CAOM. Thuật ngữ chỉ người Việt dưới thời thuộc địa đặt ra cho chúng ta vô số khó khăn. Các nhóm ở Paris không bao gồm người Lào hay người Campuchia, thậm chí cả khi họ sử dụng thuật ngữ “người Đông Dương”. Khi họ dùng thuật ngữ “An Nam” họ muốn nói đến người Việt từ cả ba miền - không chỉ Trung kỳ. (Có rất ít người Việt miền Trung ở Paris . Xem Ho Hue Tam Tai, Radicalism, 71.) Hiệp hội Các nhà Đầu bếp Đông Dương vì vậy được biết đến như Hiệp hội Các nhà Đầu bếp An Nam. Khi trích dẫn, tôi sử dụng các thuật ngữ trong nguyên bản, nhưng ở những chỗ khác, tôi dùng chữ “người Việt”.

(5) Báo cáo của chỉ điểm Désiré, 26-02-1925, 3 SLOTFOM 1, dossier 56, CAOM.

(6) Ho Tue Tam Tai, Radicalism, 232-233. Về Nguyễn Thế Truyền, cũng xem 54, 70, và 276n126, trong đó giải thích là cha của Nguyễn Thế Truyền là cộng sản, nhưng thuật ngữ “cấp tiến” của Hồ Tuệ Tâm Tài thì hợp với ông hơn. Cũng xem Hémery, Du patriotisme” 16.

(7) Hémery, Du patriotisme” 16-17; Ho Hue Tam Tai, Radicalism, 232-233.

(8) Báo cáo của chỉ điểm Désiré, 29-19-1926, 3 SLOTFOM 27, dossier 87, CAOM.

(9) Thu Trang - Gaspard, Hồ Chí Minh, 233.

(10) Robert Wohl, French Communism in the Making, 1914-1924 (Stanford, CA: Stanford University Press, 1966) 407-411.

(11) Philippe Dewitte, Les mouvements nègres en France , 1919-1939 (Paris: Harmattan, 1985), 109-110. Cả Hadj Ali và Senghor đều có xuất thân từ giai cấp lao động (107, 110); Senghor cũng phục vụ trong quân đội Pháp trong Thế chiến I (111).

(12) Chỉ điểm Désiré báo cáo về một cuộc họp giữa Abdelkader Hadj Ali, Nguyễn Thế Truyền và Võ Thành Long vào 13-3-1925, 3 SLOTFOM 4, dossier 46, CAOM. Võ Thành Long (còn gọi là Maurice Long) có thể có một lý do khác muốn tránh bị chú ý; khi phân tích các hồ sơ, tôi nghĩ Võ Thành Long có khả năng là một chỉ điểm của mật thám.

(13) Hémery, Du patriontisme 6, 14, 22-23; Ho Tue Tam Tai, Radicalism, 57, 71, 241; McConnell, Leftward Journey, 120; Le Van Ho, Travailleurs 234, 435. Phần lớn các cuộc tuyển mộ trong chiến tranh là từ Bắc kỳ, và làn sóng sinh viên Pháp vào thập niên 1920 là từ Nam kỳ. Nhưng những bằng chứng về xuất xứ của công nhân thời hậu chiến chỉ mang tính gợi ý chứ không mang tính kết luận. Để biết thêm, xin xem phần dưới tiểu mục “Công nhân và cuộc Đại khủng hoảng”.

(14) Về tiểu sử thời trẻ của Võ Thành Long (1895-1918), xem the Archives du Gouvernement Général de I’Indochine, dossier 1945 3, CAOM.

(15) Báo cáo tóm tắt không đề ngày tháng của mật thám về các tổ chức của người Việt, 3 SLOTFOM 4, dossier 46; Báo cáo của chỉ điểm Désiré; 26-02-1925, 3 SLOTFOM 1, dossier 56, CAOM.

(16) Báo cáo của chỉ điểm Désíré, 26-2-1925, 3 SLOTFOM 1, dossier 56, CAOM.

(17) Báo cáo của chỉ điểm Désíré, 21-11-1924, 3 SLOTFOM 1, dossier 56, CAOM. Aymard sáng lập tờ nhật báo La Liberté thiên hữu vào năm 1922.

(18) Báo cáo tóm tắt không đề ngày tháng của cảnh sát về các tổ chức của người Việt; Báo cáo của chỉ điểm Désíré, 08-4-1924, 3 SLOTFOM 4, dossier 46, CAOM.

(19) Các tổ chức xã hội chung cung cấp mạng lưới an toàn xã hội của Pháp vào những năm giữa hai cuộc thế chiến này. Paul V. Dutton, Origins of the French Welfare Stale: the Stuggle for Social Reform in France, 1914-1947 ( New York: Cambridge University Press, 2002); Michel Dreyfus, Liberté, égalité, mutualité: Mutualisme et syndical-isme (1852-1967) ( Paris : Éditions de I’Atelier, 2001). Về các tổ chức tương trợ qua lại và xã hội của người Việt, xem Lương Văn Hy, Revolution in the Village (Hônlulu: University of Hawaii Press, 1992) 56-60); và Nguyễn Từ Chi, The Traditional Việt Village in Bắc Bộ: Its Organizational Structure and Prob-Iems, trong The Traditional Village in Vietnam, Nxb. The Gioi, 1993, 78-114.

(20) So sánh với lao động công nhật làm việc tại các bến cảng ở Marseiles, những người lao động chân tay này có việc làm tương đối ổn định. Nhưng họ vẫn ghen tị với các đầu bếp và người ở vì những người kia có việc làm được bảo đảm hơn và có lương tháng (Báo cáo chỉ điểm Désiré, 25-6-1926, 3 SLOTFOM 4, dossier 47, CAOM). Để biết thêm về “hệ thống Marseille” của những người lao động không cố định, xem Lewis, The Strangeness of Foreigness, 70.

(21) Báo cáo chỉ điểm Désiré, ngày 06-3-1925, 3 SLOTFOM 4, dossier 46, CAOM.

(22) Xem Nguyễn Văn Hai, thư gửi Tổng thanh tra

[Controleur Général] Bộ thuộc địa về những nỗ lực của Phạm Văn Chước trong việc giành lại ảnh hưởng cá nhân, ngày 01-9-1924, 3 SLOTFOM 4, dossier 46, CAOM. (Sau ngày Phạm Văn Chước trở thành chủ tịch Hiệp hội Lao động Chân tay).

(23) Xem cuộc thảo luận của ban lãnh đạo vào tháng 4-1924 về việc làm cách nào là tốt nhất để quyên tiền của Ca-mille Aymard trong báo cáo của chỉ điểm Désiré, 17-4-1924, 3 SLOTFOM 4, dossier 46, CAOM.

(24) Báo cáo chỉ điểm Désiré, 25-6-1926, 3 SLOTROM 4, dossier 47, CAOM.

(25) Nt, 16-12-1926, 3 SLOTROM 1, dossier 47, CAOM.

(26) Nt, 08-01-1925, 3 SLOTROM 1, dossier 56, CAOM.

(27) Nt, 14-01-1926, 3 SLOTROM 1, dossier 56, CAOM. Cũng xem Brent Hayes Edwards, The Shadow of Shadows, Positions 11, no. (2003): 18.

(28) Nt, 30-12-1925, 3 SLOTROM 1, dossier 56, CAOM.

(29) Nt, 16-7-1926, 3 SLOTROM 4, [dossier 19?], CAOM. (Theo một ghi chú trong cùng hồ sơ này, ghi ngày 16-11-1925, Sai Văn Hóa đã tiêu 1.300 francs cho bữa tiệc).

(30) Báo cáo chỉ điểm Désiré, 06-12-1926, 30-12-1926 và 04-01-1927, 3 SLOTROM 4, dossier 46, CAOM. Trong năm 1927, Hiệp hội Lao động Chân tay chia làm hai, sau khi chủ tịch và thủ quỹ tố cáo nhau là ăn cắp. Khi những công nhân có tư tưởng chính trị hơn cũng xin trợ cấp thì chính phủ đơn giản là ngừng toàn bộ tài trợ cho tổ chức này (Báo cáo của Bộ Nội vụ, ngày 08-8-1927, 3 SLOTROM 4, dossier 46, CAOM).

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.
Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.