Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 20/10/2011 21:47 (GMT+7)

Rau an toàn và một số vấn đề về sản xuất rau an toàn

Trong những năm gần đây việc sản xuất rau, quả tươi an toàn đã được nhiều địa phương quan tâm đầu tư nghiên cứu và phát triển. Tuy nhiên việc sản xuất rau an toàn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của xã hội (Lưu Thanh Đức Hải, 2008). Trong khi rau sản xuất hiện nay chủ yếu theo phương thức truyền thông và do nông dân tự quyết định về quy trình kỹ thuật canh tác như: lựa chọn đất sản xuất, nước tưới, bón phân, phòng trừ sâu bệnh; sản phẩm chưa được kiểm tra, giám sát chất lượng trước khi đưa ra thị trường tiêu thụ dẫn đến nhiều trường hợp bị ngộ độc do sử dụng rau, mất lòng tin của người tiêu dùng (Bùi Thị Gia, 2007; Trung Đức, 2008). Sản xuất rau, quả tươi an toàn theo hướng thực hành nông nghiệp tốt VietGAP dựa trên nguyên tắc ngăn ngừa và hạn chế rủi ro từ các mối nguy cơ ô nhiễm ảnh hưởng đến sự an toàn, chất lượng sản phẩm rau, quả, môi trường, sức khỏe, an toàn lao động và phúc lợi xã hội của người lao động trong sản xuất, thu hoạch và xử lý sau thu hoạch là việc làm thực sự cần thiết trong tình hình hiện nay.

1. Rau an toàn

Những sản phẩm rau tươi (gồm các loại rau ăn củ, lá, thân, hoa và quả) có chất lượng đúng như đặc tính giống của nó, hàm lượng các chất độc, mức độ nhiễm các sinh vật gây hại ở dưới mức tiêu chuẩn cho phép, đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng và môi trường thì được coi là rau đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, gọi tắt là "rau an toàn" (Theo WHO).

Yêu cầu chất lượng của rau an toàn bao gồm (Đào Duy Tâm, 2006; Phú Trọng, 2007):

- Về hình thái: sản phẩm phải được thu hoạch đúng thời điểm, đúng yêu cầu của từng loại rau, đúng độ chín kỹ thuật (hay thương phẩm), không dập nát, hư thối, không lẫn tạp, không sâu bệnh và có bao gói thích hợp.

- Về nội chất: phải đảm bảo quy định đạt dưới mức cho phép cho từng loại rau về dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật, hàm lượng nitrat (NO 3), hàm lượng một số kim loại nặng như thủy ngân (Hg), chì (Pb), asen (As), cadimi (Cd), đồng (Cu)… mức độ nhiễm các vi sinh vật gây bệnh và ký sinh đường ruột như E.coli, Salmonella, trứng giun sán…

Nói cách khác, rau an toàn là rau không dập nát, hư hỏng, không có đất, bụi bám quanh, không chứa các sản phẩm hóa học độc hại, hàm lượng nitrat, kim loại nặng, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật cũng như các vi sinh vật gây hại phải được hạn chế theo tiêu chuẩn an toàn và được trồng trên các vùng đất và nguồn nước tưới không ô nhiễm kim loại nặng, canh tác theo quy trình tổng hợp, hạn chế được sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật hóa học ở mức độ tối thiểu cho phép.

2. Nguyên nhân rau không an toàn:

Hiện nay sản xuất rau trên diện rộng thường không sạch, không an toàn. Có một số nguyên nhân chính trong sản xuất dẫn đến rau không an toàn như sau (Phú Trọng, 2007; Nguyễn Lân Dũng, 2010):

Trồng trên các vùng đất ô nhiễm kim loại nặng, sử dụng nước ở các nguồn sông ngòi, rãnh nước, nước ngầm ô nhiễm tưới trực tiếp trên rau.

Dùng các loại thuốc hóa học trừ sâu bệnh, cỏ dại độc hại, ngoài danh mục cho phép sử dụng trên rau, dùng quá nồng độ, liều lượng và không có thời gian cách ly trước khi thu hoạch.

Dùng nhiều phân đạm vô cơ dẫn đến tình trạng tích lũy nitrat với hàm lượng cao trong rau, dùng các phân bón ngoài danh mục cho phép.

Dùng phân tươi, nước tiểu, phân người và gia súc chưa ủ, chưa xử lý để bón cho rau dẫn đến việc nhiễm vi sinh vật, ký sinh trùng gây bệnh.

Thu hoạch chưa đúng kỹ thuật, chưa có sơ chế đóng gói, vận chuyển và bảo quản không tốt dẫn đến dập nát, hư hỏng, lẫn tạp.

3. Cơ sở pháp lý về sản xuất, kinh doanh rau an toàn

Quy hoạch, phát triển sản xuất và tiêu thụ rau an toàn dựa trên một số căn cứ pháp lý như sau:

- Quyết định số 84/2008/QĐ-BNN ngày 28/7/2008 ban hành Quy chế chứng nhận Quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP) cho rau, quả và chè an toàn.

- Thông tư số 59/2009/TT-BNNPTNT ngày 9/9/2009 hướng dẫn thực hiện một số điều của Quyết định số 107/2008/QĐ-TTg ngày 30/7/2008 của Thủ tướng Chính phủ ban hành về một số chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, chế biến, tiêu thụ rau, quả, chè an toàn đến 2015.

- Thông tư số 75/2009/TT-BNNPTNT ngày 2/12/2009 ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm trong sản xuất nông sản.

4. Điều kiện sản xuất rau an toàn

Để đảm bảo sản phẩm rau an toàn, trong sản xuất cần phải tuyệt đối tuân thủ theo các quy định sản xuất rau an toàn đã được ban hành, phải vận dụng cụ thể cho từng loại rau, từng điều kiện thực tế của địa phương. Một số yêu cầu chính trong sản xuất rau an toàn.

- Về đất trồng: Có quy hoạch vùng sản xuất xa khu công nghiệp, khu dân cư tập trung, bệnh viện, nghĩa trang để không bị ảnh hưởng các chất thải, không nhiễm các hóa chất độc hại cho con người và môi trường.

- Về nước tưới: Có nguồn nước tưới không bị ô nhiễm các chất độc hại, chỉ dùng các nước giếng khoan đã qua xử lý, nước từ các sông hồ không bị ô nhiễm; tuyệt đối không sử dụng trực tiếp nước thải từ khu công nghiệp, bệnh viện, khu dân cư, nước ao tù đọng, nước gần nghĩa trang để tưới rau.

- Về phân bón: Phải có quy trình bón phân cụ thể cho từng loại rau, chỉ dùng phân xanh, phân chuồng dã ủ hoai mục, sử dụng hợp lý về số lượng các loại phân hữu cơ, vô cơ, tăng cường sử dụng phân hữu cơ vi sinh và phân vi sinh để thay thế phân vô cơ; không sử dụng phân hữu cơ (phân bắc, phân chuồng, phân rác…) còn tươi, không sử dụng phân đạm hóa học quá mức, hạn chế sử dụng các chất kích thích và điều hòa sinh trưởng cây trồng; đặc biệt đối với rau ăn lá phải kết thúc bón phân trước thu hoạch 15-20 ngày.

- Về phòng trừ dịch hại: Phải áp dụng phương pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên nguyên tắc hạn chế thấp nhất sự thiệt hại do dịch hại gây ra, đạt hiệu quả kinh tế cao, ít độc cho con người và không gây ô nhiễm môi trường. Phải có quy trình IPM từ khâu làm đất cho đến thu hoạch, bảo quản cho từng loại rau, trong đó tập trung vào việc lựa chọn giống rau tốt, chống chịu sâu bệnh, xử lý hạt giống và cây trồng trước khi gieo trồng. Cần sử dụng các biện pháp canh tác hợp lý để tiêu diệt dịch hại và hạn chế thấp nhất cá điều kiện phát sinh dịch hại trên rau. Chú ý thực hiện chế độ luân canh, xen canh, vệ sinh đồng ruộng…. để giảm sự gây hại của dịch hại. Chú trọng biện pháp bảo vệ và sử dụng thiên địch trong việc khống chế dịch hại rau.

- Về sử dụng thuốc hóa học: Chỉ sử dụng thuốc có trong danh mục cho phép sử dụng trên rau khi cần thiết, chú trọng việc sử dụng các loại thuốc có nguồn gốc sinh học, thảo mộc, có độ độc thấp, nhanh phân hủy, ít ảnh hưởng đến sinh vật có ích trên đồng ruộng. Bảo đảm thời gian cách ly trước thu hoạch đúng theo chỉ dẫn của từng loại thuốc. Tuyệt đối không được dùng các loại thuốc cấm và hạn chế sử dụng ở Việt Nam , không được ủ rau tươi bằng các hóa chất bảo vệ thực vật. Thường xuyên kiểm tra việc sử dụng thuốc hóa học bảo vệ thực vật trong quy trình sản xuất và dư lượng hóa chất có trong rau. Các tiêu chí phân tích dư lượng thuốc bảo vệ thực vật phải tiến hành tại các phòng thí nghiệm đạt chuẩn.

- Về thu hoạch, sơ chế và đóng gói: Phải thu hoạch đúng thời gian theo quy trình của từng loại rau. Không để sản phẩm rau sau khi thu hoạch tiếp xúc trực tiếp với đất và hạn chế để qua đêm. Các dụng cụ, thùng chứa, bao bì đóng gói sản phẩm rau phải được làm từ các nguyên liệu không gây ô nhiễm lên sản phẩm. Cần xây dựng nhà xưởng và công trình phục vụ cho việc gieo trồng, xử lý, đóng gói, bảo quản. Sử dụng nước sạch, đảm bảo tiêu chuẩn để rửa và sơ chế rau. Phải có hệ thống xử lý rác thải và hệ thống thoát nước nhằm giảm thiểu nguy cơ ô nhiễm đến vùng sản xuất và nguồn nước.

- Về bảo quản và vận chuyển rau tươi: Chỉ sử dụng các loại hóa chất, chế phẩm, màng sáp cho phép trong quá trình xử lý sau thu hoạch. Không bảo quản và vận chuyển sản phẩm chung với các hàng hóa khác có nguy cơ gây ô nhiễm sản phẩm. Phương tiện vận chuyển được làm sạch trước khi xếp thùng chứa sản phẩm. Thường xuyên khử trùng kho và phương tiện vận chuyển.

5. Công nhận đủ điều kiện sản xuất rau an toàn

Theo Quyết định số 99/2008/QĐ-BNN và Quyết định số 84/2008/QĐ-BNN để được công nhận đủ điều kiện sản xuất rau an toàn hoặc rau an toàn theo hướng VietGAP thì nhà sản xuất gửi hồ sơ đăng kí đề nghị cấp giấy chứng nhận về Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nơi sản xuất, hồ sơ gồm: 1) Đơn đăng ký chứng nhận đủ điều kiện sản xuất và sơ chế rau, quả an toàn; 2) Các bản kê khai điều kiện sản xuất, sơ chế rau, quả an toàn.

Đoàn thẩm định của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiến hành kiểm tra hồ sơ và thực địa; khi cần thiết thì lấy mẫu đất, nước để phân tích; lập biên bản thẩm định có xác nhận của đại diện đoàn thẩm định và nhà sản xuất. Nếu đảm bảo điều kiện theo quy định thì đoàn thẩm định đề nghị Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất và sơ chế. Trường hợp nhà sản xuất chỉ sơ chế rau, quả thì cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sơ chế rau, quả an toàn.

6. Kết luận

Hiện nay các vùng sản xuất rau đang có nhiều nguy cơ dẫn đến mất an toàn thực phẩm. Các quy định của quy trình kỹ thuật sản xuất bị vi phạm phổ biến do ý thức của người sản xuất, thiếu sự thường xuyên giám sát của cơ quan quản lý.

Nâng cao nhận thức của người sản xuất đối với sản phẩm sản xuất ra, tăng cường giám sát, kiểm tra quy trình sản xuất và chất lượng sản phẩm rau an toàn là cần thiết. Mặt khác cần làm tốt việc đăng ký và chứng nhận sản xuất rau an toàn cho các hộ, nhóm hộ sản xuất để khẳng định trách nhiệm của họ và truy nguyên nguồn gốc đối với sản phẩm sản xuất ra.

Tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Lân Dũng (2010). "Rau an toàn phải là rau sạch". Thông tin Khoa học và Công nghệ Vĩnh Phúc,2: 23-25.

2. Trung Đức (2008). "Rau an toàn - Vấn đề cấp bách". Tạp chí Thông tin và Phát triển,4(19): 32-34.

3. Bùi Thị Gia (2007) "Tình hình thực hiện quy trình sản xuất rau an toàn ở Vân Nội, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội". Tạp chí Khoa học kỹ thuật nông nghiệp, 5: 86-91.

4. Lưu Thanh Đức Hải (2008). "Hiệu quả sản xuất-tiêu thụ và giải pháp phát triển thị trường rau an toàn trên địa bàn đồng bằng sông Cửu Long". Quản lý kinh tế, 22:16-23.

5. Đào Duy Tâm (2006). "Sản xuất và tiêu dùng rau an sạch ở thành phố Hà Nội". Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2:17-21.

6. Phú Trọng (2007). "Rau an toàn và điều kiện sản xuất rau an toàn". Bản tin Khoa học và Công nghệ Hà Giang, 3:21-23.

Tóm tắt

Trong những năm gần đây việc sảnxuấtrau, quả tươi antoàn đã được nhiều địa phương quan tâm đầu tư nghiên cứu và phát triển. Tuy nhiên việc sảnxuấtrauantoàn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Các vùng sảnxuấtrauđang có nhiều nguy cơ dẫn đến mất antoàn thực phẩm. Các quy định của quy trình kỹ thuật sảnxuấtbị vi phạm phổ biến do ý thức của người sảnxuất, thiếu sự thường xuyên giám sát của cơ quan quản lý. Bài viết này tổng hợp các thông tin vềrauantoàn và các vấnđềvềsảnxuấtrauantoàn nhằm giúp các nhà quản lý, sảnxuất, kinh doanh và tiêu thụ rauantoàn hiểu thấu đáo hơn vềrauantoàn, từ đó có định hướng phát triển sảnxuất, kinh doanh và tiêu thụ rauantoàn ở địa phương.

ABSTRACT

In recent years, the research and development investment on the production of safe vegetables and fruits has been promoted in many places. However, the production of safe vegetables has not met the growing needs of society yet. Vegetable production areas are facing with the risk of food insecurity. Regulations of production process are frequently violated due to the weak awareness of the producers and the lack of regular monitoring of the management authorities. This article recapitulates information about safe vegetables and issues of safe vegetable production in order to help managers, producers, traders and consumers know thoroughly about safety vegetables, then to have anorientation to the development of manufacturing, trading and consumption of safe vegetables in the locality.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.