Phương thức tạo nghĩa của tục ngữ
Phương thức tạo nghĩa của tục ngữ khác với phương thức tạo nghĩa của các văn bản thuộc các thể loại văn học dân gian khác chủ yếu ở “hình thức câu nói” ấy. Theo sự tìm hiểu của người viết, có ba phương thức tạo nghĩa trong tục ngữ: dùng lối nói trực tiếp, dùng lối nói nửa trực tiếp, và dùng lối nói gián tiếp.
I. Miêu tả ba phương thức tạo nghĩa của tục ngữ
1. Dùng lối nói trực tiếp
a. Dùng lối nói trực tiếp, hiển ngôn phù hợp với việc truyền bá kinh nghiệm, tri thức từ đời này sang đời khác của tục ngữ. Phần lớn đó là các kinh nghiệm về tự nhiên, về sản xuất nông nghiệp và một số ngành nghề phổ biến, về đời sống vật chất của con người.
Các câu như “Ráng vàng thì gió, ráng đỏ thì mưa” nhằm dự đoán thời tiết; “Trồng mía phân hoai, trồng khoai phân rác”, nhằm bày cách dùng phân cho hai loại cây trồng là mía và khoai; “Trẻ trồng na, già trồng chuối”, đưa ra nhận xét hay lời khuyên về việc trồng cây ăn quả liên quan đến tuổi tác (na lâu có quả, chuối mau thu hoạch, lại bồi bổ sức khoẻ tốt); “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”, là sự nhìn nhận về sản xuất và hưởng thụ, có làm mới có ăn; “Tôm nấu sống, bống để ươn” và “Rượu cổ be, chè đáy ấm”, nhằm bày cách chế biến hai loài thuỷ sản là tôm và cá bống, và bảo cho biết rượu ngon khi uống ở đầu chai, còn trà ngon thì ngược lại, nằm ở cuối ấm;... đều dùng lối nói trực tiếp, không có ẩn ý gì trong cách thể hiện này.
Những câu tục ngữ nhằm giới thiệu về con người, nghề nghiệp, sản vật, lễ hội các địa phương, như “ổi Định Công, nhãn lồng Thanh Liệt” (Hà Nội), “Nong nia ổ Cá, rổ rá Khê Cầu” (Bắc Giang), “Quan xứ Nghệ, lính lệ xứ Thanh”, “Sen Cẩm Thạch, gạch Đồng Mĩ” (Phú Yên), “Nem chả Hoà Vang, bánh tổ Hội An, khoai lang Trà Kiệu, thơm rượu Tam Kì” (Quảng Nam), “Cọp Khánh Hoà, ma Bình Thuận”, “Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, mồng chín đâu đâu trở về hội Gióng” (Bắc Ninh - Hà Nội),... cũng dùng lối nói trực tiếp.
Bên cạnh các nội dung vừa nêu, tuy mức độ không cao bằng, lối nói trực tiếp cũng được sử dụng ở các vấn đề khác của cuộc sống. Thí dụ: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, “Mồng một tết nhà, mồng ba tết chuồng, mồng bốn mới ra vườn tết cây”, “Một đời kiện chín đời thù”, “Nuôi dâu thì dễ, nuôi rể thì khó”, “Những người da trắng tóc thừa, đẹp thì đẹp thật nhưng thưa việc làm”, “Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ mới là chân tu”,...
b. Lối nói trực tiếp, ở số tục ngữ có cấu trúc hai vế cân xứng, thường gặp bốn dạng tạo nghĩa: dạng 1, vế đầu nêu một sự việc hiển nhiên, vế sau là nội dung mới cần thông báo; dạng 2, vế đầu nêu một sự việc không đúng, vế sau là hậu quả của sự việc ấy; dạng 3, gồm hai vế tương đồng, với hai chủ thể hành động hay đối tượng bị tác động khác nhau; và dạng 4, gồm hai vế tương phản, có cùng một chủ thể hành động hay đối tượng bị tác động.
+ Câu “Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng nam” gồm hai vế có quan hệ so sánh, vế đầu nêu một điều hiển nhiên (lấy vợ thì người vợ phải là đàn bà), vế sau là một kinh nghiệm cần phô diễn: làm nhà thì trổ về hướng nam. Bởi muốn chỉ bày việc làm nhà theo hướng nam, nên dùng chuyện “lấy vợ đàn bà” để khẳng định.
Cùng một hướng tạo nghĩa như vậy, còn có thể dẫn: “Ruộng giữa đồng, chồng giữa làng”, “Dao có mài mới sắc, người có học mới khôn”, “Cây khô không có lộc, người độc không có con”, “Mỗi mả một ma, mỗi nhà một cửa”, “Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà một cảnh”, “Đất có thổ công, sông có hà bá”,...
+ Câu “Chuồng gà hướng đông, cái lông chẳng còn” gồm hai vế có quan hệ nhân quả, vế đầu nêu sự việc không đúng đã làm (hay giả sử đã xảy ra), vế thứ hai là hậu quả xấu của việc làm trên. Vế sau, như vậy, đã phủ định vế trước. Câu tục ngữ nhằm ý: làm chuồng gà không nên xoay về hướng đông (vì gió đông làm lông gà xơ xác, dễ bị ốm).
Cùng một hướng tạo nghĩa như vậy, còn có thể dẫn: “Lấy vợ không cheo, tiền gieo xuống ngòi”, “Cưới vợ không cheo, mười heo cũng mất”, “Con gái chửa hoang, các vàng không lấy”,...
+ Câu “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà” gồm hai vế tương đồng, có quan hệ đẳng lập, có cùng chủ đề là chuyện hư của trẻ. Mỗi vế có đối tượng liên quan đến vấn đề khác nhau, chúng tác động qua lại nhau về nghĩa, khiến điều nhận xét được coi là hiển nhiên.
Cùng một hướng tạo nghĩa như vậy, còn có thể dẫn: “Mít chạm cành, chanh chạm rễ”, “Đực chuộng phệ, sề chuộng chõm”, “Miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời”, “Một chữ nên thầy, một ngày nên nghĩa”, “Cha muốn con hay, thầy muốn trò giỏi”,...
+ Câu “Chuyện mình thì quáng, chuyện người thì sáng” gồm hai vế tương phản, có quan hệ đối ứng qua chủ đề chung là giải quyết sự việc, vấn đề đặt ra trong cuộc sống, mà tối việc mình, sáng việc người. Chủ thể hành động chỉ một, nên hai vế cùng kết hợp tạo nét nghĩa về sự bất ổn ở một con người.
Cùng một hướng tạo nghĩa như vậy, còn có thể dẫn: “Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng”, “Nói một đường, thỉnh một nẻo”, “Học thì dốt, vợ tốt thì muốn”, “Khôn ba năm, dại một giờ”,...
c. Trong tục ngữ có hiện tượng dùng câu tục ngữ này để giải thích, hay xác định làm rõ nghĩa câu tục ngữ kia. Thường gặp ở lối nói trực tiếp là trường hợp phá vỡ mô hình đã có để nới thêm số tiếng.
Các thí dụ dưới đây được trình bày sóng cặp, câu sau nhằm giải thích làm rõ nghĩa câu trước:
- “ Taykhông mà nổi cơ đồ”. -> “ Taykhông mà nổi cơ đồ mới ngoan”.
- “Tin bợm mất bò, tin bạn mất vợ”. -> “Tin bợm mất bò, tin bạn mất vợ nằm co một mình”.
- “Khôn ngoan đến cửa quan mới biết”. -> “Khôn ngoan đến cửa quan mới biết, giàu có ba mươi tết mới hay”.
- “ Taylàm hàm nhai”. -> “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ” -> “ Taylàm hàm nhai, tay quai miệng trễ, tay để miệng không”.
- “Lấy chồng cho đáng tấm chồng”. -> “Lấy chồng cho đáng tấm chồng, bõ công trang điểm má hồng răng đen”.
- “Trai tứ chiếng, gái giang hồ”. -> “Trai tứ chiếng hầu bao dạ cá, gái giang hồ yếm vá cổ sây” (hoặc: “Trai tứ chiếng, gái giang hồ, gặp nhau ta nổi cơ đồ từ đây".
- “Thế gian được vợ hỏng chồng”. -> “Thế gian được vợ hỏng chồng, có đâu lại được cả ông lẫn bà” (hoặc: “Thế gian được vợ hỏng chồng, có phải như rồng mà được cả đôi”).
- “Muốn ăn lúa, phải xem trăng”. -> “Muốn ăn lúa chiêm, xem trăng rằm tháng tám” (hoặc: “Muốn ăn lúa dé, xem trăng rằm tháng giêng”, “Muốn ăn lúa tháng mười, xem trăng mồng tám tháng tư”,... ).
2. Dùng lối nói nửa trực tiếp
Dùng lối nói nửa trực tiếp, hàm ngôn phù hợp với việc nêu các nhận xét, đánh giá về những vấn đề đặt ra từ cuộc sống của tục ngữ.
Ở phương thức tạo nghĩa này, thường gặp hai dạng: dùng hình ảnh cụ thể nói thay cho khái niệm trừu tượng, và dùng một số phương thức tu từ, chơi chữ. Chính các dạng thức, phương tiện vừa nói tạo ra hiện tượng chỉ bộ phận sử dụng chúng mới có hàm ý, khiến câu tục ngữ chia làm hai phần, phần nêu trực tiếp vấn đề và phần suy nghĩa gián tiếp, tức hàm ý kia. Khá nhiều trường hợp khi rút ra nghĩa này, chúng trùng với nghĩa khái quát.
a. Nghĩa được tạo ra từ việc sử dụng một bộ phận hình ảnh trong câu tục ngữ
Bộ phận hình ảnh trong câu tục ngữ được dùng để nói thay khái niệm trừu tượng. Có thể dùng cách máy móc là tách hình ảnh (hay nhóm hình ảnh) này ra, phiên chuyển sang khái niệm trừu tượng, rồi thay khái niệm trừu tượng vừa được phiên chuyển vào câu tục ngữ để nắm bắt nghĩa vốn có.
Dưới đây là việc sử dụng thao tác vừa nói để trình bày lối tạo nghĩa và việc suy nghĩa của một số câu tục ngữ.
+ “Bà chết thì khách đầy nhà, ông chết thì cỏ gà đầy sân”.
=> Tách “cỏ gà đầy sân” (1) ra.
=> Cỏ đầy sân do không có người dọn, không có người giẫm lên, hiểu theo văn cảnh là “không ai đến viếng” (1’) (vì ông có địa vị, bà mất trước, khách vì kiêng nể ông mà đến viếng bà, nay ông mất, khách chẳng còn vì nể ai nên không đến).
=> Thay (1) bằng (1’) vào câu tục ngữ: bà chết thì khách đầy nhà, ông chết thì không ai đến viếng. Đó là nghĩa của nó.
+ “Còn cha gót đỏ như son, một mai cha thác gót con như chì”.
=> Tách “gót đỏ như son” (1), “gót con như chì” (2) ra.
=> “Gót đỏ như son” biểu hiện sự no đủ, nhàn hạ, nói chung là “sung sướng” (1’); “gót con như chì” biểu hiện sự thiếu thốn, cực nhọc, nói chung là “lam lũ” (2’).
=> Thay (1) bằng (1’), (2) bằng (2’) vào câu tục ngữ, ta có: còn cha thì sung sướng, cha mất thì lam lũ. Đó là nghĩa của câu tục ngữ.
+ “Mồ côi cha ăn cơm với cá, mồ côi mẹ liếm lá đầu chợ”.
=> Tách “ăn cơm với cá” (1), “liếm lá đầu chợ” (2) ra.
=> “Ăn cơm với cá” biểu hiện sự “no đủ” (1’); “liếm lá đầu chợ” biểu hiện sự “đói khổ” (2’).
=> Thay (1) bằng (1’), (2) bằng (2’) vào câu tục ngữ, ta có: mồ côi cha thì vẫn được mẹ lo cho no đủ, còn như mồ côi mẹ thì phải đói khổ (thường vì cha lấy vợ mới, và người mẹ kế rẻ rúng con chồng). Đó là nghĩa của câu tục ngữ.
+ “Khi thương củ ấu cũng tròn, khi ghét bồ hòn cũng méo”.
=> Tách “củ ấu cũng tròn” (1), “bồ hòn cũng méo” (2) ra.
=> Củ ấu thì không tròn, quả bồ hòn thì không méo; cho nên khi nói củ ấu tròn, bồ hòn méo là bất chấp thực tế, đồng nghĩa với “sự vật, sự việc còn non kém, thiếu sót vẫn cho là được” (khi thương) (1’), và “sự vật, sự việc đã đầy đủ, hoàn thiện vẫn cho là không được” (khi ghét) (2’).
=> Thay (1) bằng (1’), (2) bằng (2’) vào câu tục ngữ, ta có được nghĩa của nó (từ nghĩa này, suy ra câu tục ngữ đang bàn tương đương với một câu tục ngữ khác, là “Yêu nên tốt, ghét nên xấu”).
+ “Rau muống tháng chín mẹ chồng nhịn cho nàng dâu ăn”, và “Rau muống tháng chín nàng dâu nhịn cho mẹ chồng ăn”.
=> Tách “mẹ chồng nhịn cho nàng dâu ăn” (1’) và “nàng dâu nhịn cho mẹ chồng ăn” (2) ra.
=> Chúng ta thấy, thông thường, mẹ chồng không nhịn cho nàng dâu ăn thứ ngon, và nàng dâu cũng vậy. Cho nên, khi nói “mẹ chồng nhịn cho nàng dâu ăn”, hoặc “nàng dâu nhịn cho mẹ chồng ăn” thì thứ được nhịn là thứ dở, khó nuốt:
“Mẹ chồng nhịn cho nàng dâu ăn”
“Nàng dâu nhịn cho mẹ chồng ăn”
=> Thay (1) và (2) bằng (1’) vào câu tục ngữ, ta có: rau muống tháng chín thì dở (“rau muống tháng chín” trở thành loại “thuốc thử” cho quan hệ giữa nàng dâu với mẹ chồng).
b. Nghĩa được tạo ra từ việc sử dụng một phương thức tu từ, hoặc chơi chữ ở một bộ phận của tục ngữ
b.1. Cách so sánh
- “Chồng như đó, vợ như hom”.
=> Tách “đó” (1), “hom” (2) ra.
=> Đó là đồ đan bằng tre, hình ống, để đón bắt tôm cá, nói theo văn cảnh là “làm ra của cải” (1’); hom là vật để đậy miệng lờ, đó, đan hình nón thủng ở chóp, để tôm cá mỗi khi đã vào lờ, đó thì không ra được, nói theo văn cảnh là “giữ của do đó làm nên” (2’).
=> Thay (1) bằng (1’), (2) bằng (2’) vào câu tục ngữ, ta có được nghĩa của nó: chồng làm ra của cải, còn vợ thì giữ lấy của cải ấy (để phục vụ cuộc sống và tái sản xuất).
- Hai thí dụ dưới đây cũng sử dụng thao tác trên nhưng phân tích sóng cặp:
“Gái có chồng như rồng có mây”.
“Gái không chồng như cối xay chết ngõng”.
=> Tách “rồng có mây” (1) khỏi câu đầu, “cối xay chết ngõng” (2) khỏi câu sau.
=> “Rồng có mây” thì phù hợp, hanh thông (1’); “cối xay chết ngõng” (ngõng: mấu hình trụ của một vật để tra vào lỗ, nhằm giữ cố định cho vật đó quay) thì bị bế tắc (2’).
=> Thay (1) bằng (1’), (2) bằng (2’) vào hai câu tục ngữ, ta có được nghĩa của chúng: gái có chồng thì hanh thông (câu đầu), gái không chồng thì bế tắc (câu sau).
“Gái gặp hơi trai như thài lài gặp cứt chó”.
“Trai phải hơi vợ như cò bợ phải trời mưa”.
=> Tách “thài lài gặp cứt chó” (1) khỏi câu đầu, “cò bợ phải trời mưa” (2) khỏi câu sau.
=> “Thài lài gặp cứt chó” thì phù hợp, phát triển (1’); “cò bợ phải trời mưa” thì rũ rượi, xác xơ (2’).
=> Thay (1) bằng (1’), (2) bằng (2’) vào hai câu tục ngữ, ta có được nghĩa của chúng: gái gặp hơi trai thì phù hợp, phát triển (câu đầu), trai phải hơi vợ thì rũ rượi, xác xơ (câu sau) (_).
b.2. Cách hoán dụ
“Xanh đầu con nhà bác, bạc đầu con nhà chú”.
=> Tách “xanh đầu” (1), “bạc đầu” (2) ra.
=> “Xanh đầu” là lối nói khác của “trẻ tuổi” (1’); “bạc đầu” là cách nói khác của “lớn tuổi” (2’).
=> Thay (1) bằng (1’), (2) bằng (2’) vào câu tục ngữ, ta có được nghĩa của nó: (tuy) trẻ tuổi nhưng con nhà bác (là vai anh), (dẫu) lớn tuổi nhưng con nhà chú (cũng phải giữ phận làm em).
b.3. Cách chơi chữ
- “Trai năm trăng gặp nàng bảy tróng”.
Tách "năm trăng" (1), "bảy tróng (2) ra.
=> “Năm trăng” là năm lượt phải mang gông, tức “gian tà” (1’); “bảy tróng” (“tróng”: cũng nói “troóng”) là bảy bận bị cùm tay chân, tức “quỷ quái” (2’).
=> Thay (1) bằng (1’), (2) bằng (2’) vào câu tục ngữ, ta có được nghĩa của nó: trai gian tà gặp nàng quỷ quái.
Đây là cách chơi chữ gần nghĩa: “năm trăng” - “bảy tróng”.
- “Trời quả báo: ăn cháo gãy răng, ăn cơm gãy đũa, xỉa răng gãy chày”.
=> Tách “ăn cháo gãy răng, ăn cơm gãy đũa, xỉa răng gãy chày” (1) ra.
=> Ăn cháo thì không gãy răng, ăn cơm thì không gãy đũa, xỉa răng thì không gãy chày (xỉa răng có thể gãy tăm nhưng chày thì không thể gãy); tức chẳng có chuyện “gãy” do trời quả báo tạo nên (1’).
=> Thay (1) bằng (1’) vào câu tục ngữ, chúng ta thấy nói trời quả báo mà thật ra chẳng quả báo gì, nói cách khác, không hề có chuyện quả báo xảy ra (hàm ý phủ nhận vai trò của trời về việc trừng phạt cái xấu, ác).
Đây là cách chơi chữ Nói A mà B, do B phủ định A, nên chỉ có nói mà thật ra không có hiệu quả gì.
c. Ngoài ra, hiện tượng dùng câu tục ngữ này để giải thích, hay xác định làm rõ nghĩa câu tục ngữ kia, trường hợp phá vỡ mô hình để nới thêm số tiếng, đã trình bày ở lối nói trực tiếp, thì ở lối nói này cũng bắt gặp một số:
- “Nhiều người không ai đóng cửa” (nhiều người hay nảy sinh tâm lí dựa dẫm nhau mà trốn tránh trách nhiệm - nghĩa khái quát) -> “Lắm sãi không ai đóng cửa chùa”.
- “Có xôi nói xôi, có thịt nói thịt” (cho hưởng gì, nói theo nấy - chê người không có lập trường, tư cách). -> “Có xôi nói xôi dẻo, có thịt nói thịt bùi”.
- “Làm khách sạch ruột”. -> “Làm khách sạch ruột, làm chuột no bụng” (khách khí thì chịu thiệt về quyền lợi, tham lam thì có nhiều lợi lộc).
- “Vợ đẹp càng tổ đau lưng”. -> “Vợ đẹp càng tổ đau lưng, chè ngon khan giọng, thuốc thơm quyện đờm” (thứ để hưởng thụ mà càng tốt đẹp, càng muốn dùng nhiều, và do dùng quá mức cần thiết nên gây hại cho sức khoẻ - nghĩa khái quát).
- “Ở tinh gặp ma, ở quỷ gặp quái” (ở sao gặp vậy, ở tinh ma gặp quỷ quái - nghĩa khái quát). -> “ở tinh thì lại gặp ma, ở quỷ gặp quái, gian tà gặp nhau”.
3. Dùng lối nói gián tiếp
Đây là phương thức tạo nghĩa do ẩn dụ sắm vai chính. Do cái được ẩn dụ được liên tưởng từ những nét tương đồng với cái ẩn dụ, sự liên tưởng ấy xuất phát từ tâm lí cộng đồng, mà tâm lí này không tránh khỏi cảm quan ít nhiều có tính chất thời sự xã hội chính trị giai đoạn, nên việc đoán nhận các ẩn dụ (đã thuộc quá khứ) trong tục ngữ không phải bao giờ cũng dễ dàng.
a. Cách tạo nghĩa ẩn dụ thông thường
+ Câu tục ngữ “Ông ăn chả, bà ăn nem”, có thể phân tích:
- Chả và nem là loại thức ăn đặc biệt, không phải thứ thường ngày vẫn dùng;
- Cả hai vợ chồng đều được ăn loại thức ăn đặc biệt kia (ông ăn trước);
- Hai người không ăn cùng một loại mà mỗi người ăn một thứ khác nhau (“nem” và “chả”), và ăn riêng (hai vế khác nhau của câu).
- Có một sự tương ứng về tâm lí người trong quan hệ nam nữ ngoài hôn nhân, đã được ngôn ngữ ghi nhận: “ăn vụng”, “ăn vụng quên chùi mép”, “ăn phở”, “ăn phở cho lạ miệng”,...
Từ đó “Ông ăn chả, bà ăn nem” tạo mối liên tưởng tương đồng với: ông (chồng) ngoại tình, bà (vợ) cũng nhăng nhít. Đó là nghĩa của câu tục ngữ, và là nghĩa bóng. Câu tục ngữ không có nghĩa đen, bởi đem chuyện ăn chả ăn nem ra nói thì không khỏi mang tiếng khoe khoang, và như vậy không đáng để ghi nhận.
+ Câu “Chuột bầy làm chẳng nên hang”, có thể phân tích:
- Chuột bầy thường dựa dẫm nhau;
- Con nào cũng muốn chứng tỏ mình, không con nào chịu con nào;
- Muốn đào được hang cần có những việc làm theo một quy cách, trình tự nhất định;
- Có một sự tương ứng ở những con người ô hợp, chỉ biết lợi dụng nhau, mà không tuân theo một sự điều khiển chung, họ không làm nên việc.
Từ đó “Chuột bầy làm chẳng nên hang” tạo mối liên tưởng tương đồng với: một tập thể ô hợp sẽ chẳng làm nên được trò gì. Đó là nghĩa (nghĩa bóng) của câu tục ngữ. Câu này không có nghĩa đen.
+ Câu “Năm ngón tay có ngón ngắn, ngón dài”, có thể phân tích:
- Năm ngón tay cùng thuộc một bàn tay;
- Năm ngón tay dài ngắn không đều nhau;
- Tuy dài ngắn khác nhau, nhưng mỗi ngón tay ngoài phần việc riêng của mình đều góp phần để tạo hiệu quả chung của cả bàn tay;
- Có sự tương ứng với một tập thể (mỗi người có năng lực, hoàn cảnh khác nhau và đảm trách phần việc riêng, nhưng đều cộng đồng trách nhiệm để hoàn thành những công việc chung).
Từ đó “Năm ngón tay có ngón ngắn, ngón dài” tạo mối liên tưởng tương đồng với: những người trong cùng một tập thể, một gia đình có người thế này kẻ thế khác nhưng đều vì sự nghiệp chung (nên cần chia sẻ, cảm thông).
b. Cách tạo nghĩa ẩn dụ theo lối kết hợp
Đây là trường hợp tương tự với phương thức mở rộng mô hình để giải thích, bổ sung nghĩa cho nhau, khi trình bày về cách tạo nghĩa theo lối trực tiếp, hiển ngôn. Bên cạnh việc mở rộng mô hình, với ẩn dụ còn có hình thức hai câu tục ngữ là khẳng định, phủ định của nhau.
b.1. Trường hợp có hơn một câu tục ngữ dùng phương thức ẩn dụ, câu này giải thích cho câu kia theo lối mở rộng mô hình để nới thêm số tiếng:
- “Trèo cao ngã đau” (nghĩa bóng: tham vọng lớn, khi thất bại sẽ đau đớn nhiều). “Càng trèo cao, càng ngã đau”.
- “Nồi nào úp vung nấy” (nghĩa bóng: người có khả năng ra sao thì chọn vợ lấy chồng như thế ấy). -> “Nồi tròn úp vung tròn, nồi méo úp vung méo”. -> “Nồi đồng úp vung đồng, nồi đất úp vung đất”.
- “Trâu đồng nào ăn cỏ đồng ấy” (nghĩa bóng: người ở đâu thì lấy vợ lấy chồng ở nơi ấy). -> “Trâu đồng ta ăn cỏ đồng ta, tuy rằng cỏ cụt nhưng mà cỏ thơm”.
- “Kiến leo cột sắt bao mòn” (nghĩa bóng: năng lực nhỏ bé không tác động được gì đáng kể vào sự vật hiện tượng kì vĩ, lớn lao). -> “Kiến leo cột sắt bao mòn, tò vò xây tổ bao tròn mà xây”.
- “Thấp cao mới biết tuổi vàng” (nghĩa bóng: nhờ thử thách mới rõ lòng nhau).
_ “Thấp cao mới biết tuổi vàng, gặp cơn lửa đỏ màu càng thêm tươi”.
- “Rút dây động rừng” (nghĩa bóng: xử lí, tác động đến một cá thể, sợ liên quan đến cái tổ chức của cá thể ấy). -> “Rút dây động rừng ba ngả”. -> “Rút dây còn sợ động rừng, báng đầu thằng trọc, nể lòng ông sư”.
b.2. Trường hợp có hai câu tục ngữ dùng phương thức ẩn dụ, là dạng khẳng định, phủ định của nhau. Chúng giải thích lẫn nhau.
“Mọt ăn cứt sắt” (1).
“Mọt chẳng ăn được cứt sắt” (2).
Nghĩa: khả năng yếu kém mà cố tác động vào cái không thể (thì chẳng đem lại lợi ích gì) (1); khả năng yếu kém không thể tác động được thứ đòi hỏi một năng lực cao hơn (2).
c. Dùng lối nói gián tiếp, chuyển nghĩa bên cạnh ẩn dụ, còn có sự tham gia với mức độ nhất định của phương thức hoán dụ.Hoán dụ trong trường hợp này chi phối toàn bộ câu tục ngữ, chứ không chỉ tác động một phần như trường hợp dùng lối nói nửa trực tiếp đã trình bày.
Thí dụ:
- “Con khóc mẹ mới cho bú”.
Nghĩa hoán dụ: cấp dưới, người dưới có yêu cầu, đề đạt nguyện vọng, cấp trên, người bậc trên mới biết để đáp ứng (câu phủ định của nó: “Con không khóc mẹ chẳng cho bú”).
- “Nước lã vã nên hồ”.
Nghĩa hoán dụ: không có điều kiện, cơ sở vật chất ban đầu mà vẫn tạo dựng được sự nghiệp (câu phủ định của nó: “Nước lã vã chả nên hồ”).
II. Kết luận
Tục ngữ có ba phương thức tạo nghĩa như đã trình bày. Ba phương thức này, trên đại thể tạo ra ba loại nghĩa: nghĩa đen, nghĩa khái quát, nghĩa bóng; và các nghĩa kết hợp giữa chúng (nghĩa đen và nghĩa khái quát, nghĩa đen và nghĩa bóng,... ).
Phương thức tạo nghĩa là vấn đề then chốt khi xem xét thể loại. Nắm bắt nó cũng như nắm chìa khoá để mở ra tác phẩm. Đây là phần việc mà bất kì một hướng tiếp cận nào cũng không thể không quan tâm.
Hi vọng việc xác định phương thức tạo nghĩa của bài viết đáp ứng được đòi hỏi ấy.