Nông dân mất đất – Bài toán chưa có lời giải!
Trong những năm qua, các địa phương “trăm hoa đua nở” làm khu công nghiệp, đã lấy đi khá nhiều diện tích đất. Chỉ tính từ năm 2004 đến nay, theo báo cáo của 49 tỉnh, thành phố (còn một số tỉnh thành không báo cáo) đã thu hồi gần 750 ngàn ha đất để thực hiện 29 ngàn dự án đầu tư. Điều đáng nói là trong 750 ngàn ha đó thì có tới 80% là đất nông nghiệp. Khoảng 50% diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm, đây là những khu vực đất màu mỡ cho 2 vụ lúa một năm.
Vài năm gần đây phổ biến tình trạng các tỉnh đua nhau xây dựng sân gôn phục vụ cho việc giải trí của thiểu số người giàu. Tính đến nay cả nước có 141 sân gôn ở 39 tỉnh, thành phố, sử dụng tới 49.268 ha, trong đó có 2625 ha đất lúa. Nếu như suốt 16 năm mới chỉ cấp phép cho 34 dự án sân gôn thì chưa đầy 2 năm (2006-2008) khi các địa phương được quyền cấp phép, họ đã cấp ồ ạt cho 104 dự án, nghĩa là cứ bình quân sau một tuần lại xuất hiện một sân gôn. Các vùng kinh tế trọng điểm có diện tích đất nông nghiệp thu hồi lớn nhất, chiếm khoảng 50% diện tích đất bị thu hồi trên toàn quốc.
Theo nghiên cứu của Tiến sỹ Đinh Văn Đãng và Lưu Văn Duy, trường Đại học nông nghiệp Hà Nội, thì chỉ tính riêng năm 2007, diện tích lúa gieo trồng cũng đã giảm 125.000 ha. Điều tra của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn tại 16 tỉnh, thành phố trọng điểm cho thấy, diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi chiếm khoảng 89%, hầu hết là đất lúa, thuộc diện bờ xôi ruộng mật. Với diện tích này, hàng năm sản lượng lúa cả nước có thể giảm trên 1 triệu tấn.
Cùng với việc đất đai bị thu hồi làm Khu công nghiệp và sân gôn, số diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi để phát triển đô thị cũng khá lớn. Hiện cả nước có trên 743 đô thị các loại bao gồm: 2 đô thị đặc biệt, 3 đô thị loại I, 14 đô thị loại II, 36 đô thị loại III, 41 đô thị loại IV và 647 đô thị loại V. Phát triển đô thị luôn đi liền với việc thu hồi đất, giải phóng mặt bằng để xây dựng hạ tầng, nhà ở, công trình dịch vụ.... tính đến nay trên phạm vi cả nước đã thu hồi hơn 30.000 ha đất nông nghiệp để làm đô thị.
Có một thực tế đáng báo động là hiện nay nhiều khu công nghiệp đã tiến hành thu hồi, san lấp mặt bằng nhưng chậm tiến độ trong xây dựng cơ sở hạ tầng và thu hút đầu tư kém, tỷ lệ lấp đầy thấp, dẫn đến tình trạng đất đai bị bỏ hoang, lãng phí trong nhiều năm. Cụ thể như: Khu công nghiệp Hà Nội - Đài Tư thành lập từ năm 1995 đến nay mới lấp đầy 18,8%; Khu công nghiệp Đồ Sơn thành lập từ năm 1997 đến nay mới lấp đầy 24,1%; Khu công nghiệp Mỹ Xuân B1 được thành lập từ năm 1998 đến nay mới lấp đầy 9,6%; Khu công nghiệp Khánh An (Cà Mau) được thành lập từ năm 2004 đến nay vẫn đang trong giai đoạn xây dựng cơ bản, mới cho thuê được 3ha, lấp đầy 1,22%; Khu công nghiệp Cát Lái IV (Thành phố Hồ Chí Minh) và Khu công nghiệp Kim Hoa (Vĩnh Phúc) được thành lập từ năm 1997 – 1998 nhưng chưa hoàn thành xây dựng cơ bản; Khu công nghiệp Phố Nối B (Hưng Yên) mới đạt 20%. Ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long mới có 15/177 cụm công nghiệp đi vào hoạt động với diện tích 702ha/15.457ha, số còn lại vẫn đang trong giai đoạn giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ bản.
Tình trạng các dự án “treo” còn khá phổ biến. Mặc dù đã thực hiện việc thu hồi đất và giao đất, cho thuê đất ngoài thực địa song trên thực tế rất nhiều dự án quá 12 tháng vẫn chưa đưa đất vào sử dụng hoặc sử dụng chậm tiến độ. 61 tỉnh, thành phố có khoảng 1200 dự án treo với diện tích trên 130.000 ha, trong đó có 670 dự án xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp với diện tích 48.000 ha; 230 dự án xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội với diện tích 48.000 ha; 180 dự án xây dựng đô thị với diện tích 3900 ha. Các địa phương nhiều dự án treo là NamĐịnh 80 dự án, TP. Hồ Chí Minh 50 dự án, Quảng Nam 50 dự án, Đồng Nai 40 dự án, Vĩnh Phúc 32 dự án, Hà Nội 29 dựa án, Cần Thơ 24 dự án, Hải Dương 18 dự án, Đà Nẵng 16 dự án.
Việc thu hồi đất nông nghiệp trong 5 năm (2004-2009) đã tác động đến đời sống của trên 627 ngàn hộ gia đình với khoảng 2,5 triệu người. Mặc dù quá trình thu hồi đất, các địa phương đã ban hành nhiều chính sách cụ thể đối với người nông dân như bồi thường, hỗ trợ giải quyết việc làm, đào tạo chuyển đổi nghề, hỗ trợ tái định cư... Tuy nhiên trên thực tế có tới 67% lao động nông nghiệp vẫn giữ nguyên nghề cũ sau khi bị thu hồi đất, 13% chuyển sang nghề mới và có tới 25-30% không có việc làm hoặc có việc làm nhưng không ổn định. Thực trạng này cũng là nguyên nhân dẫn đến kết quả 53% số hộ nông dân bị thu hồi đất có thu nhập giảm so với trước kia, chỉ có 13% số hộ có thu nhập tăng hơn trước. Trung bình mỗi hộ bị thu hồi đất có 1,5 lao động rơi vào tình trạng không có việc làm và mỗi ha đất bị thu hồi sẽ làm mất việc 13 lao động.
Tại một số vùng ven đô đồng bằng sông Hồng, trước khi thu hồi đất chỉ có 10% lao động đi làm thuê, sau khi thu hồi đất tỷ lệ này là 17%. Tình trạng này cũng đang có xu hướng tăng lên ở miền Đông Nam Bộ và vùng ĐBSCL. Đa phần người nông dân không đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng nên dù có chính sách bắt buộc các khu công nghiệp phải nhận lao động nông nghiệp bị thu hồi đất thì người lao động cũng sớm bị loại do tay nghề kém và nếp sống nông thôn không quen nhịp sống công nghiệp. Nhiều địa bàn có tới hàng ngàn lao động mất việc làm nhưng chỉ có 10 - 20 người đã qua đào tạo nghề. Hơn nữa, số người lao động quá tuổi tuyển dụng (trên 35 tuổi - độ tuổi khó thích nghi với môi trường lao động mới) chiếm tỷ lệ cao. Một nguyên nhân thường gặp ở các vùng chuyển đổi đất là nhận thức của người lao động còn ỷ lại vào chính sách hỗ trợ Nhà nước, vào tiền đền bù mà chưa tự mình tìm kiếm việc làm. Một nguyên nhân khác là việc tổ chức, chỉ đạo, tuyên truyền hướng dẫn cho người lao động ở các địa phương còn hạn chế. Những năm qua, Chính phủ đã dành nhiều ưu tiên giải quyết việc làm cho người dân có đất bị thu hồi, nhưng chưa đáp ứng nhu cầu (ước tính chỉ mới tạo việc làm được khoảng 55.000 người/năm). Hiệu quả thực tế của những biện pháp tạo việc làm cho nông dân vẫn còn cách xa nhu cầu. Một trong những nguyên nhân chủ yếu của hạn chế đó là khu quy hoạch đất nông nghiệp thu hồi ở nhiều địa phương chưa gắn với quy hoạch tái định cư, thiếu kế hoạch cụ thể về hỗ trợ dạy nghề và việc làm cho người lao động. Hầu hết nông dân trong hoàn cảnh này đều bị động khi phải chuyển đổi mục đích đất sản xuất.
Để khắc phục tình trạng này, trong quy hoạch các khu công nghiệp phải cân nhắc xây dựng ở những nơi tách hẳn khỏi đất sản xuất nông nghiệp, xa khu dân cư, làm hạ tầng đồng bộ như: đường giao thông nói với các trục đường chính, điện, nước, hệ thống xử lý ô nhiễm môi trường. Cách làm này sẽ mất nhiều kinh phí hơn so với tận dụng khu vực tận dụng đất gần đường quốc lộ, song là cần thiết cho sự phát triển bền vững, tránh ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, đảm bảo đời sống người nông dân. Nếu buộc lấy đất nông nghiệp thì phải lấy những nơi đất xấu, canh tác không hiệu quả.
Trước mắt để giải quyết số lao động nông thôn mất việc hiện nay, Nhà nước cần hỗ trợ nông dân tận dụng quỹ đất nông nghiệp còn lại chuyển sang phát triển nông nghiệp đạt hiệu quả cao, áp dụng tiến bộ khoa học mới tăng giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích. Quy hoạch khu vực sản xuất nông nghiệp tập trung, đẩy mạnh dồn điền, đổi thửa. Đào tạo người nông dân có kiến thức sản xuất nông nghiệp theo hướng thâm canh, hiện đại, mang lại thu nhập từ thuần nông có chất lượng và giá trị.
Chuyển đổi lao động nông nghiệp sang các ngành nghề phi nông nghiệp: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn. Tăng cường đào tạo, hướng nghiệp, nhất là đào tạo nghề tại chỗ. Quỹ đất để lại 10% giao cho các hộ bị thu hồi đất làm cơ sở dịch vụ theo quy hoạch, hướng dẫn các hộ này liên kết với nhau thành lập hợp tác xã làm dịch vụ hỗ trợ cho các khu công nghiệp như: dịch vụ bán hàng, nhà cho thuê, dịch vụ vệ sinh...








