Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 28/08/2007 00:09 (GMT+7)

Những lời kết tội nhà Minh trong Bình Ngô đại cáo

Thui dân đen trên lò bạo ngược,/ Hãm con đỏ dưới hố tai ương./ Dối trời lừa người, kế gian đủ muôn nghìn khoé,/ Cậy binh gây hấn, ác chứa gần hai chục năm./ Bại nghĩa thương nhân, trời đất tưởng chừng muốn dứt;/ Vét vơ thuế má, chằm núi chẳng còn tí gì./ Khai mỏ vàng, thì xông pha lam chướng, phá núi đãi vàng;/ Mò ngọc trai thì mặc giao long, giòng dây quẳng biển./ Nhiễu dân đào hầm bẫy hươu đen./ Hai vật, chăng lưới bắt chim trả./ Cỏ cây sâu bọ, không loài nào được thoả sống còn;/ Quan quả khốn cùng, chẳng một ai được yên ổn./ Hút máu mủ sinh linh, quân tham ác miệng răng nhờn béo,/ Ra công xây dựng cho nguy nga những dinh thự công tư./ Nơi châu lý bao tầng sưu dịch,/ Trong xóm làng lặng lẽ cửi canh./ Tát cạn nước Đông Hải không đủ rửa vết nhơ,/ Chặt hết trúc Nam Sơn, chẳng đủ ghi tội ác./ Thần người đều căm giận,/ Trời đất chẳng dung tha. (1)

Bắt chước lối làm sử xưa, xin lần lượt lấy những câu trong Bình Ngô đại cáolàm “cương”, rồi nêu lên những bằng chứng chi tiết làm “mục”. Ta hãy thử đi từng đoạn:

- Thui dân đen trên lò bạo ngược,

Hãm con đỏ dưới hố tai ương.

Tất cả những người tham gia khởi nghĩa chống quân Minh đều là dân Việt; ngoài những nghĩa sĩ chết trên chiến trường không kể, Minh Thực Lụcchép hai vụ giết tập thể tù nhân, một vụ giết lăng trì, róc thịt lãnh tụ khởi nghĩa Nguyễn Cảnh Dị. Các văn bản dưới đây là bằng chứng về việc “ Thui dân đen trên lò bạo ngược…”.

Vụ giết tù nhân thứ nhất là do Anh Quốc Công Trương Phụ thực hiện tại xã Nghi Dương, huyện An Lão, châu Đông Triều [thuộc Kiến - An, tỉnh Hải - Hưng hiện nay] (2). Để đàn áp cuộc nổi dậy của Nguyễn Sư Cối, Trương Phụ sai chém hơn 2000 tù nhân, lập thành bãi tha ma nguỵ để dân chúng xem:

Ngày 9 tháng Giêng năm Vĩnh Lạc thứ 8 [12 – 2 – 1410]

Ngày hôm nay quan Tổng - binh Giao - Chỉ Anh Quốc - công Trương Phụ đánh bại dư đảng giặc Nguyễn Sư Cối tại châu Đông - Triều. Trước đây Sư Cối nguỵ xưng Vương, cùng với bọn nguỵ Kim Ngô Thượng Tướng quân Đỗ Nguyên Thố đóng binh hơn 2 vạn tại xã Nghi Dương, huyện An Lão, châu Đông Triều; thường đến sông Hoàng Giang, Ma Lao cùng cửa biển Đại Toàn cướp phá, để hưởng ứng theo Giản Định [Giản Định Đế]. Đến ngày hôm nay Trương Phụ cho vây xã Nghi Dương, bọn giặc chống cự, quan quân phấn khởi bắn tên đá như mưa, khiến giặc thua to. Chém hơn 4500 thủ cấp, chết trôi nhiều; bắt sống nguỵ Giám Môn Tướng quân Phạm Chi, nguỵ Vũ Lâm Vệ Tướng quân Trần Nguyên Khanh, nguỵ Trấn Phủ sứ Nguyễn Nhân Trụ hơn 2000 tên, bèn chém liệm xác chôn thành bãi tha ma để thị chúng (Nguyên văn: sinh cầm nguỵ Giám Môn Vệ Tướng – quân Phạm Chi, nguỵ Vũ Lâm Vệ Tướng – quân Trần Nguyên Khang, nguỵ Trần - Phủ - Sứ Nguyễn Nhân Trụ đẳng nhị thiên dư nhân, giải trảm chi liễm kỳ thi vi kinh quan yên – Minh Thực Lụcq. 100, t. 1303).

Chín năm sau lại có một cuộc khởi nghĩa khác cũng tại huyện An Lão; do nhà sư Phạm Ngọc tu tại chùa Đồ Sơn cầm đầu. Viên Tổng binh Giao Chỉ bấy giờ là Phong Thành hầu Lý Bân đàn áp, bắt tù nhân trước sau hơn 1000 người, bèn cho xử chém để làm răn:

Ngày 15 tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 17 [31 – 12 – 1419]

Quan Tổng binh Giao Chỉ Phong Thành hầu Lý Bân bắt được tù - trưởng giặc Phạm Thiện tại châu Đông Triều. Trước đây tên yêu tăng Phạm Ngọc tại chùa Đồ Sơn, huyện An Lão phao rằng trời giáng ấn kiếm, lệnh làm chúa; bèn tiếm xưng La Bình vương, kỷ nguyên Vĩnh Ninh, tụ tập đám đông làm loạn. Bọn Thiện và Đào Thừa đến theo. Ngọc cho Thiện làm Nhập Nội Kiểm Hiệu Tả Tướng quốc Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, Đào Thừa làm Xa Kỵ Đại Tướng quân, Lê Hành làm Tư Không, tụ tập đám đông chiếm cứ đường thuỷ và bộ. Lúc đại quân đến đánh, Thiện dàn quân hai bên bờ, lại bày thuyền giữa sông, thuỷ bộ cùng chống cự. Bân xua quân đánh gấp, chém 1200 thủ cấp, bắt sống Thiện cùng bọn Trung gồm 780 người, tịch thu hơn 200 chiếc thuyền lớn nhỏ; Ngọc tẩu thoát, lại bắt quân giặc hơn 260 tên, tất cả đều bị xử chém để răn. Thiện, Trung, cùng bọn Vũ Lộ đều bị giải về kinh sư (Bân đốc tướng sĩ cức chiếm, trảm thủ thiên nhị bách cấp, sinh cầm Thiện cập Trung đẳng thất bách bát thập nhân, đắc thuyền đại tiểu nhị bách thập lục thập dư sưu. Ngọc tẩu thoát, hữu đắc tặc tốt nhị bách lục thập dư nhân giai trảm chi giới. Thiện, Trung, cập Vũ Lộ đẳng câu tống kinh – Minh Thực Lụcq. 219, t. 2174).

Qua hai văn kiện nêu trên, Minh Thực Lụcchỉ ghi việc làm của hai viên Tổng chỉ huy quân đội nhà Minh tại nước ta, còn thuộc hạ thì cho là chuyện nhỏ không đề cập tới. Nhưng một khi chủ tướng giết một, thì kẻ dưới giết mười; hãy tưởng tượng nỗi đau khổ của dân ta lúc bấy giờ!

Trong cuộc đánh phá tàn quân của vua Trùng Quang (Trần Quí Khoáng) tại huyện Chính Hoà; phủ Tân Bình, địa điểm tương đương với huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình ngày nay, quân Minh đã vây hãm khiến Nguyễn Cảnh Dị bị thương ( Minh Thực Lụcchép lầm là Đặng Cảnh Dị), chúng bắt được chủ tướng bèn đem róc thịt cho đến chết (3). Riêng anh em Đặng Dung bị bắt đem về Trung Quốc.

Nhắc đến Đặng Dung, chúng ta không quên được nét hào tráng bi hùng trong thiên tuyệt tác nói lên hoài bão của tác giả trong bài: Thuật hoài:

Thế sự du du lão nại hà!

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca

Sau đây là văn bản thuật lại việc đánh bắt và giết Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung:

Ngày 17 tháng Giêng năm Vĩnh Lạc thứ 12 [7 - 2 - 1414]

Quan Tổng binh Anh Quốc công Trương Phụ mang quân đến trang Tra Hoàng, huyện Chính Hoà [thuộc tỉnh Quảng Bình], châu Chính Bình; tướng giặc là Hồ Đồng hàng. Nghe tin bọn Đặng Cảnh Dị, Đặng Dung, Long Hổ Tướng quân nguỵ Lê Thiềm cùng hơn 700 tên chạy đến sách Côn – Bồ, Tiêm Man; bọn Phụ tiến binh ngay đến sông La Mông. Phải theo đường núi vin cành lá mà leo lên, nên đành bỏ ngựa, tướng sĩ tiếp tục đi theo. Đến sách Côn Bồ, bọn Cảnh Dị đã bỏ trốn; lại truy kích đến sách Tra Bồ Nại, bọn giặc và dân địa phương đều bỏ trốn, không biết ở chốn nào, nên làm cuộc lục soát lớn. Vào canh tư, đi trên 20 dặm, nghe tiếng trống điểm canh, Phụ sai Đô Chỉ huy Phương Chính mang quân lẳng lặng đi, đến lúc trời sáng đến phía bắc sông, lại tác ra Tra Bồ Cán. Giặc lập trại bờ phía nam, quan quân vượt sông vây đánh. Giặc chống không nổi, tên bắn liên tục trúng. Cảnh Dị bị thương tại sườn, bắt được. Đặng Dung trốn, Phương Chính mang quân truy lùng bắt cùng với em là Đặng Nhuệ; lại bắt hết bọn giặc Lê Thiềm, tịch thu ấn nguỵ của Cảnh Dị. Cảnh Dị bị thương nặng, róc thịt, gói thủ cấp áp giải cùng anh em Đặng Dung đến kinh đô; tất cả đề bị xử chém để làm răn. (Cảnh Dị thương thậm, quả chi, hàm thủ cấp Dung huynh đệ tống kinh sư, tất trảm tuẫn – Minh Thực Lụcq. 147, t. 1727 – 1728).

Những bằng chứng lịch sử nêu trên, có thể làm sáng tỏ lời cảnh báo sau đây của thầy Mạnh Tử đối với bọn cai trị độc tài “ Một khi dân không sợ chết, đừng lấy cái chết doạ dân”. Trương Phụ đàn áp tại huyện An Lão, giết hàng ngàn tù nhân đắp mả nguỵ trang để cảnh cáo, nhưng vô ích, lửa giận của dân được nhen nhúm, để rồi 9 năm sau lại nổi lên cuộc khởi nghĩa khác của các nhà sư chùa Đồ Sơn cũng chính tại huyện An Lão này. Việc Trương Phụ chỉ huy những trận càn quét tàn quân của Vua Trùng Quang (Trần Quí Khoáng), tại sông Ái Tử, Ái Mẫu thuộc châu Thuận [thuộc tỉnh Quảng Trị], cùng hành động dã man róc thịt Nguyễn Cảnh Dị tại phủ Tân Bình [thuộc tỉnh Quảng Bình] vào năm Quý Tỵ (1413), thì 4 năm sau đó cũng chính tại châu Thuận và phủ Tân Bình nổi lên cuộc khởi nghĩa lớn do những người đã từng hợp tác với nhà Minh khởi xướng, để mưu đồ lật đổ bạo quyền:

Ngày 13 tháng 6 năm Vĩnh Lạc thức 15 [26 - 7 - 1417]

Quan Tổng binh Giao Chỉ Phong Thành hầu Lý Bân tâu “Tại Giao Chỉ, người châu Thuận [Quảng Trị] có bọn Lê Hạch, Phan Cường, cùng bọn thổ quan Đồng tri Trần Khả Luận, Phán quan Nguyễn Chiêu, Chủ bạ Phạm Mã Hoãn, Thiên hộ Trần Não, Bách hộ Trần Ngô Sài; tại châu Nam Linh [phía bắc tỉnh Quảng Bình] có Phán quan Nguyễn Nghĩ, Tri huyện Tả Bình Phạm Bá Cao, Huyện thừa Vũ Vạn, Bách hộ Trần Ba Luật làm loạn. Chúng đốt thành quách nhà cửa hai châu, giết quan lại, tiếm xưng danh hiệu, tụ tập đồng đảng hơn 1000 tên. Bèn ra lệnh ngay cho Đô đốc Chu Quảng mang quân đánh dẹp, cùng chỉ huy Giao Châu Trung vệ Hoàng Chấn, Chỉ huy Đồng tri Giao Châu Hữu vệ Đàm Công Chính, Chỉ huy Thiêm sự vệ Thuận Hoá Ngô Qùi, Chỉ huy Thiêm sự vệ Tân Bình Phan Cần cầm quân hội tiễu; giết Lê Hạch cùng đồ đảng hơn 500 người tại trận, bắt sống Phan Cường, Trần Khả Luận, Nguyễn Chiêu, Phạm Mã Hoãn, Phạm Bá Cao, Vũ Vạn; chiếu theo luật tất cả đều bị tru lục. Bọn Nguyễn Nghĩ, Trần Ba Luật cùng đồng bọn còn sót lại bỏ trốn; đốc suất các tướng tiếp tục truy bổ…” ( Minh Thực Lụcq 190, t 2012 – 2013).

- Dối trời lừa người, kế gian đủ muôn nghìn khoé,

Cậy binh gây hấn, ác chứa gần hai chục năm.

Bại Nghĩa thương nhân, trời đất tưởng chừng muốn dứt,

Vét vơ thuế má, chằm núi chẳng còn tí gì.

Người Trung Quốc có câu nói “Thiên tử bất hý ngôn” nghĩa là vua không nói đùa, ý nói lời vua hứa chắc như đinh đóng cột. Xét việc làm của vua Minh Thành Tổ, rõ ràng phản lại câu nói trên. Trong đạo dụ nêu 20 điều kết tội cha con nhà Hồ, Minh Thành Tổ long trọng hứa sẽ lập con cháu nhà Trần lên làm vua. Nhưng vốn bản chất “dối trời lừa người” nhà Minh tìm mọi cách phỉnh gạt rằng con cháu nhà Trần đã chết hết, để chia nước ta thành phủ huyện cai trị. Giản Định đế, Trần Quí Khoáng là con cháu nhà Trần, được dân chúng tôn lên làm vua, thể theo lời vua nhà Minh rêu rao “phục hưng nước bị diệt, nối dòng bị “đứt” bèn cho sứ giả đến xin cầu phong, thì bị quân Minh khủng bố bắt giết. Lịch sử ghi nhận Trương Phụ hai lần giết sứ giả nhà hậu Trần: Năm Vĩnh Lạc thức 7 [1409] giết Sứ giả Đoàn Tự Thuỷ tại Thanh Hoá; năm Vĩnh Lạc thứ 11 [1413] giết Sứ giả Nguyễn Biểu tại Nghệ An. Về vụ giết Sứ giả Đoàn Tự Thuỷ, Minh Thực Lụcchép như sau:

Ngày 3 tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 7 [9 – 11 - 1409]

Ngày hôm nay quan Tổng binh Giao Chỉ Anh Quốc công Trương Phụ trú binh tại Thanh Hoá. Lúc này tên cầm đầu giặc Trần Quí Khoang xưng càn là cháu Tiền Vương, sai nguỵ quan Đoàn Tự Thuỷ mang thư đến quan Tổng binh xin phong tước. Phụ nói rằng con cháu nhà Trần trước đây bị giặc họ Lê giết hết rồi, đã cho tìm hỏi khắp nhưng không còn ai. Nay chỉ phụng mệnh dẹp giặc, không biết điều gì khác; bèn đem Đoàn Tự Thuỷ giết, rồi xua binh tiến thẳng ( Minh Thực Lụcq. 97, t. 1281).

Nhà Minh cố tình đàn áp, gây việc binh đao. Không kể việc Trương Phụ lần thứ nhất mang đại quân sang đánh nhà Hồ; sau khi guồng máy cai trị được thiết lập, Trương Phụ lại mang quân sang nước ta thêm hai lần nữa. Một lần chủ yếu đánh dẹp quân của Giản Định đế, lần sau đánh tan lực lượng vua Trùng Quang (Trần Quí Khoáng) tại Thuận Hoá [Quảng Trị, Thừa Thiên]. Viên đại tướng lỳ lợm hiếu sát này, từng tuyên bố:

“Ta sống được cũng là vì Hoá Châu [chỉ vùng đất Quảng Trị, Thừa Thiên], có làm ma cũng là vì Hoá Châu. Hoá Châu mà chưa dẹp được, ta còn mặt mũi nào trông thấy chúa thượng nữa” (4).

Một mặt đàn áp, một mặt thì bóc lột, hai chính sách song song. Thuế má nặng nề, đủ mọi loại: như thuế cá phải nạp tiền, khi cần gạo thì bắt đổi tiền nạp gạo. Lại cho lập sở Thương bạc tại Vân Đồn để đánh thuế buôn bán với các tàu thuyền nước ngoài. Hai văn bản dưới đây nói về việc thu thuế cá và lập sở Thương bạc:

Ngày 24 tháng giêng năm Vĩnh Lạc thứ 7 [8 - 2 - 1409]

Bộ Hộ tâu rằng Giao - Chỉ mới nội phụ, khó có thể tận thu tô thuế, mà sự cung ứng cho quân và ngựa thì cần rất nhiều, nên tạm thời thu thuế cá, cứ 1 quan tiền thì bắt nạp 2 đấu gạo để chi dụng …( Minh Thực Lụcq.87, t.1157)

Ngày 19 tháng giêng năm Vĩnh Lạc thứ 6 [15 – 2 - 1408]

Thiết lập tại Giao Chỉ, Vân Đồn thương bạc Đề cử ty. Đặt Đề cử, Phó cử mỗi chức một viên. ( Minh Thực Lục, q 75, t 1032).

Trong bộ máy quân sự đồ sộ đặt tại nước ta, quân lính được chia làm 2 loại: một loại chiến đấu, một loại làm đồn điền. Nhà Minh cướp không núi, chằm, ruộng tốt làm hầm mỏ, đồn điền. Tận dụng trai tráng Việt làm lính đồn điền, chính quyền nhà Minh nhằm vào những điều lợi sau đây:

- Thu được số lúa nạp hàng năm, tại vùng châu thổ sông Hồng. Thanh Hoá hàng năm nạp 35 thạch; tại vùng Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên nạp 18 thạch mỗi đầu người.

- Gom thanh niên vào lính để khỏi theo phe nổi dậy.

- Lính Việt nặng lòng với nước Việt nên còn lưỡng lự hai lòng, không dùng để chiến đấu được; nên dùng làm lính sản xuất.

Sau đây là văn bản về việc lập đồn điền:

Ngày 29 tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 19 [28 - 6 - 1421]

Quan Tổng binh Giao Chỉ Phong Thành hầu Lý Bân tâu rằng đất nội phụ Giao chỉ xa xôi, không dễ dàng vận chuyển lương thực; xin cho các ty, vệ, sở chia lính lập đồn điền để cung cấp. Hoạch định một phần căn cứ vào đất đai hiểm hay dễ, tình thế gấp hay hoãn để dùng quân đồn điền hoặc chinh điều nhiều hay ít. Quân lính người bản xứ tuy được liệt vào sổ binh, nhưng lúc đánh nhau còn lưỡng lự hai lòng, thường không liều chết; nay bàn định tỷ số đồn điền phần nhiều là lính bản xứ, quan quân ít.

Trong 7 vệ gồm Giao Châu tả, hữu, trung, tiền, cùng Trấn Di, Xương Giang, Thanh Hoá; hoạch định quan quân 1 phần đồn điền, 9 phần chinh thủ; quân lính người bản xứ 7 phần đồn điền, 3 phần chinh thủ. Hậu vệ Giao Châu, vệ Tam Giang, Thiên Hộ sở Thị Cầu; quan quân 2 phần đồn điền, 8 phần chinh thủ; lính bản xứ 8 phần đồn điền, 2 phần chinh thủ. Mỗi người làm đồn điền hàng năm trưng thu 35 thạch lúa.

Ba vệ Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá quan quân đồn điền 3 phần, 7 phần chinh thủ; lính bản xứ 6 phần đồn điền, 4 phần bị chinh điều. 3 Thiên Hộ sở tại Diễm Châu, NamTĩnh, Thanh An; tất cả quan quân không phụ trách đồn điền, quân bản xứ 3 phần đồn điền, 7 phần chinh tiễu. Quân đồn điền hằng năm trưng thu 18 thạch lúa mỗi người. Lời tâu được chấp nhận ( Minh Thực Lụcquyển 237, trang 2276).

- Khai mỏ vàng thì xông pha lam chướng, phá núi đãi vàng;

Mò ngọc trai thì mặc giao long, giòng dây quăng biển.

Nhiễu dân, đào hầm bẫy hươu đen,

Hại vật, chăng lưới bắt chim trả.

Nhà Minh rất chú trọng đến việc khai mỏ vàng và ngọc trai. Minh Thực Lụcghi việc lập cục khai mỏ vàng trong 7 trấn, cục khai mỏ ngọc trai tỉnh Quảng Yên:

Ngày 19 tháng giêng năm Vĩnh Lạch thứ 6 [15 - 2 - 1408]

Lập cục khai mỏ vàng tại 7 trấn: Thái Nguyên, Gia Hưng [thuộc tỉnh Vĩnh Phú], Quảng Oai [thuộc Hà Tây], Thiên Quan [thuộc tỉnh Ninh Bình], Vọng Giang [thuộc Nghệ An], Lâm An [thuộc tỉnh Quảng Bình], Tân Ninh [không rõ]. Đặt Đại sứ 2 viên, Phó sứ 4 viên; lại tuyển tri châu, tri huyện 21 viên; mỗi trấn 2 viên Đề đốc, Áp biện; lại dùng 2 viên Tổng đốc tại phủ. Sai Bộ lễ đúc ấn ban cấp ( Minh Thực Lụcq. 75, t. 1032).

Ngày 3 tháng 8 năm Vĩnh Lạch thứ 17 [23 - 8 - 1419]

Lập cục khai mỏ ngọc trai tại châu Tĩnh An [thuộc tỉnh Quảng Ninh], đặt một viên Đại sứ ( Minh Thực Lục, q. 215, t. 2151).

Dưới thời nhà Minh đô hộ, dân đãi vàng đã làm hai cuộc khởi nghĩa, do Vũ Cống, Hoàng Nhữ Điển tại tỉnh Nghệ An, viên Xã chính coi việc đãi vàng là Trịnh Công Chứng tại tỉnh Hải Dương khởi xướng. Sử sách nhà Minh chép lại như sau:

Ngày 1 tháng 11 năm Vĩnh Lạc thứ 17 [17 - 11 - 1419]

Ty Đô Chỉ huy Giao Chỉ tâu rằng tại huyện Kệ Giang [thuộc huyện Thanh Chương], phủ Nghệ An, có tên thổ quan Bách Thiên Trần Trực Thành, cùng em là Trực Nguỵ tự xưng Kim Ngô Tướng quân; cùng bọn Lãm Bàn giặc Áo Đỏ cướp phá xã Dương Biến giết tuần kiểm Trương Tú. Vũ Cống người trong hộ đãi tìm vàng liên kết với kỳ lão Hoàng Nhữ Điển tụ tập dân chúng đốt phá huyện Phù Lưu [huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An]. Các nhóm nổi dậy tại huyện Khâu Ôn [thuộc tỉnh Lạng Sơn] có Nông Văn Lịch, châu Vũ Ninh [thuộc tỉnh Bắc Ninh] có Trần Đại Quả, châu Khoái [thuộc tỉnh Hưng Yên] có Nguyễn Đặc, huyện Thiên Thệ có Ngô Cự Lai tiếp tục trước sau làm loạn giết hại quan binh. Tại huyện Đồng Lợi, châu Hạ Hồng [thuộc tỉnh Hải Dương], phủ Tân An, viên Xã chính coi việc đãi vàng là Trịnh Công Chứng tụ tập đám đông hơn 1000 người đốt phá bắt giết quan lại tại các ty tuần kiểm thuộc các huyện Đa Dực [thuộc tỉnh Thái Bình], Đồng Lợi, châu Hạ Hồng và cửa biển sông Đản. Đô đốc Phương Chính mang quân đánh dẹp đánh bại giặc tại Đồng Lợi. Thám thính cho biết trước đó bọn chúng đến châu Nam Sách, bèn truy kích kịp thời đánh dẹp tại ty tuần kiểm A Côi [tỉnh Thái Bình] chém hơn 400 thủ cấp, số giặc chết trôi tính không hết; Công Chứng bèn chạy trốn. Sắc dụ quan Tổng binh Phong Thành hầu Lý Bân mang quân đánh bắt ( Minh Thực Lụcq. 218, t. 2165 – 2166).

Nhà Minh độc quyền việc khai thác muối, lập ty Đề cử tại các tỉnh ven biển để trông coi:

Ngày 7 tháng 5 năm Vĩnh Lạch thứ 9 [29 - 5 - 1411]

Thiết lập Đề cử lo về thuế muối, cùng trông coi kho muối. Lập ty Trần kiểm tại quan ải nhỏ thuộc huyện Cổ Lũng, phủ Lạng Giang ( Minh Thực Lụcq. 115, t. 1470).

Như tại Nghệ Tĩnh, lập các công trường muối tại cửa Hội, Nam Giới, Chân Phúc, Thiên Đông; cùng thiết lập 5 kho muối:

Ngày 13 tháng 7 năm Vĩnh Lạc thứ 15 [24 - 8 - 1417]

Thiết lập tại phủ Nghệ An, Giao Chỉ kho Quảng Tích. Tại cửa biển Đan Thai [cửa Hội], huyện Nha Nghi [huyện Nghi Xuân] lập ty Tuần kiểm; ty Đề cử muối, gồm 5 kho muối: Bác Tế, Quảng Tế, Viễn Tế, An Tế, Diễn Tế; cùng 3 công trường muối: Nam Giới, Chân Phúc, Thiên Đông ( Minh Thực Lụcq 192, t. 2028).

Bấy giờ giá muối rất đắt, thương gia phải dùng vàng, bạc để đổi muối, rồi bán cho kẻ tiêu thụ với giá cắt cổ. Người dân phải bóp bụng, bớt thực phẩm khác để lấy tiền mua muối. Thảm thay, dân một nước có cả hàng ngàn cây số bờ biển, mà không có đủ muối để ăn!

Ngày 23 tháng 4 năm Vĩnh Lạc thứ 13 [31 - 5 - 1415]

Ty Bố chánh Giao Chỉ tâu rằng đã triệu tập thương gia đến, hứa cho dùng vàng, bạc, tiền đồng để đổi muối. Rồi bộ Hộ quy định một lượng vàng cấp 30 dẫn (5) muối, 1 lượng bạc, hoặc 2500 đồng tiền cấp 3 dẫn. Nay chấp nhận ( Minh Thực Lụcq. 163, t. 1847).

Rừng biển là nơi hầm mỏ được khai thác, cũng là nơi dân bị lùa đến để săn bắt cầm thú, hải sản. Các văn bản đề cập đến việc triều cống, tiết lộ cống một lượt 200 chim thuý vũ, ngoài ra còn cống các thú vật quí hiếm khác như tê giác v.v…

Ngày 18 tháng 2 năm Vĩnh Lạc thứ 16 [25 - 3 - 1418]

Đô Chỉ huy Trần Tuấn tại Giao Chỉ sai người đến cống các vật như ngựa, vàng tê giác ngà voi ( Minh Thực Lục,q. 197, t. 2062)

- Cỏ cây sâu bọ, không loài nào được thoả sống còn,

Quan quả khốn cùng, chẳng một ai được yên ổn.

Hút máu mủ sinh linh, quân tham ác miệng răng nhờn béo,

Ra công xây dựng cho nguy nha những dinh thự công tư.

Nơi châu lý bao tầng sưu dịch,

Trong xóm làng lặng lẽ cửi canh.

Qua các bằng chứng đã nêu, người đàn ông lúc bấy giờ bị bắt lính, phục dịch nặng nề. Phụ nữ ngoài việc thay chồng nuôi con, phải bỏ khung cửi tại nhà, đến các xưởng dệt lụa, làm các đồ tiểu công nghệ để cống hiến Thiên triều:

Ngày 29 tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 17 [14 – 1 – 1419]

Giao Chỉ dâng 1320 tấm quyên, 5000 cân tô mộc, 2000 chinh thuỷ vũ, 10000 chiếc quạt ( Minh Thực Lụcq. 219, t. 2183).

Của cải tước bóc nhiều, dĩ nhiên con đường bộ qua ải Pha Luỹ không tiện cho việc vận chuyển số lượng lớn. Theo lời xin của Trương Phụ, mở phương tiện vận chuyển bằng đường thuỷ. Thuỷ trình này nếu tính từ nước ta tại Đông Quan [Hà Nội], thì bắt đầu từ sông Phú Lương [sông Hồng], qua sông Thiên Đức [sông Đuống] đến sông Lục Đầu, qua sông Kinh Môn, Kinh Thầy ra biển, rồi theo bờ biển vịnh Hạ Long đến châu Khâm Trung Quốc. Các trạm dịch đường thuỷ và sở vận chuyển được mô tả như sau:

Ngày 19 tháng 5 năm Vĩnh Lạch thứ 14 [14 - 6 - 1416]

Quan Tổng binh Giao Chỉ Anh Quốc công Trương Phụ tâu rằng từ trạm dịch Thiên Nhai thuộc châu Khâm, tỉnh Quảng Đông, qua cảng Miêu Vĩ đến Thông Luân, Phí Đào theo ngã huyện Vạn Ninh đến Giao Chỉ phần lớn do đường thuỷ, đường bộ chỉ có 291 dặm (6). Đường cũ bắc Khâu Ôn gần Thất Dịch, nên lập cả trạm đường thủy và trạm ngựa để tiện việc đi lại. [Thiên Tử] chấp thuận. Rồi cho lập hai trạm đường thuỷ tại Phòng Thành và Phật Đào tại châu Khâm tỉnh Quảng Đông; lập ba sở chuyển vận tại Ninh Việt, Dõng, Luân; lập ty tuần kiểm tại Phật Đào; lập hai trạm mã dịch tại Long Môn, An Viễn huyện Linh Sơn, lập hai sở chuyện vận tại An Hà, Cách Mộc.

Tại huyện Đồng An, châu Tĩnh An, Giao Chỉ lập trạm dịch đường thuỷ cùng sở chuyển vận tại Đồng An; lập trạm dịch đường thuỷ cùng sở chuyển vận tại Vạn Ninh, huyện Vạn Ninh; lập 3 trạm dịch đường thuỷ tại Tân An, huyện Tân An, An Hoà thuộc huyện An Hoà và Đông Triều thuộc châu Đông Triều; lập trạm dịch đường thuỷ cùng sở vận chuyển tại Bình Than, huyện Chí Linh, lập trạm dịch đường thuỷ tại Từ Sơn, thuộc huyện Từ Sơn. Các trạm ngựa tại Thiên Nhai thuộc châu Khâm, Quảng Đông; Gia Lâm thuộc huyện Gia Lâm, sông Lô phủ Giao Châu đều lập trạm đường thuỷ. Trạm đường thuỷ Châu Môn, Hoành Châu lệ thuộc vào phủ Nam Ninh, Quảng Tây. Cho thiết lập Thiên Hộ sở thủ ngự tại Tân An, Giao Chỉ ( Minh Thực Lụcq. 176, t. 1927).

Văn Nguyễn Trãi ý tứ sâu xa phong phú như có phép màu. Ta có thể lấy bốn câu cuối để kết thúc bài:

Quyết Đông Hải chi thuỷ bất túc dĩ trạc kỳ ô,

Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.

Thần nhân chi sở cộng phẩn,

Thiên địa chi sở bất dung.

(Tát cạn nước Đông Hải không đủ rửa hết vết nhơ,

Chặt hết trúc Nam Sơn, chẳng đủ ghi hết tội ác.

Thần người đền căm giận,

Trời đất chẳng dung tha).

(1)   Bản dịch của Đào Duy Anh,Nguyễn Trãi toàn tập , Nxb KHXH, 1969, tr. 63 – 64.

(2)   Chúng tôi tham khảoĐất nước Việt Nam qua các đời của Đào Duy Anh để đối chiếu các địa danh xưa trong bài này ra địa danh hiện nay. Việc làm khó có được sự chính xác hoàn toàn, nếu sơ suất xin bạn đọc chỉ dẫn; ngoài ra chỗ không biết thì ghi là không rõ.

(3)   Đại Việt Sử Ký Toàn thư, tập 2, Nxb KHXH, tr. 234 chép: Tháng 11, Nguyễn Cảnh Dị và Đặng Dung bị Trương Phụ nhà Minh bắt sống. Cảnh Dị mắng ngay vào mặt Phụ: “Tao định giết mày, lại bị mày bắt”, chửi Phụ luôn miệng. Phụ giận lắm, giết Dị rồi lấy gan ăn,

(4)   Đại Việt Sử Ký Toàn thư, tập 2, trang 233.

(5)   Qui định đo lường của Trung Quốc,dẫn không có trọng lượng nhất định, thông thường 1dẫn bằng 200 cân; 1 cân Khố Bình bằng 0,596 kg.

(6)   Một dặm xưa của Trung Quốc, tương đương 0,50 km.

Xem Thêm

Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 25/6/2025, tại Tp. Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Huế (Liên hiệp Hội TP. Huế) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức để góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023”.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Tuổi trẻ VUSTA tự hào được rèn luyện, trưởng thành dưới cờ Đảng quang vinh
Đại hội Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam (VUSTA) nhiệm kỳ 2025–2030 được tổ chức thành công vào sáng ngày 21/7. Tại Đại hội, đại diện Đoàn Thanh niên VUSTA đã có bài phát biểu chúc mừng đại hội. Bí thư Đoàn Thanh niên Lê Thị Thủy khẳng định: “Tuổi trẻ VUSTA tự hào được rèn luyện, trưởng thành dưới cờ Đảng quang vinh và luôn xác định rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong công cuộc đổi mới đất nước”.
Cuộc thi sáng tác biểu trưng (logo) Đảng uỷ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương
Hướng tới chào mừng Đại hội Đảng bộ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030, Cuộc thi sáng tác biểu trưng (logo) Đảng uỷ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương và biểu trưng (logo) Đại hội đại biểu Đảng bộ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 – 2030 được chính thức khởi động từ ngày 18/7/2025.