Những lời đính chính của giáo sư Hoàng Tranh
Tương tự, một số học giả lịch sử Trung Quốc cũng chịu ảnh hưởng của không khí chính trị này bèn “phản kỳ đạo nhi hành chi”. Cá nhân tôi năm 1979 cũng đã viết một bài nhan đềLuận Mã Viện chinh Giao Chỉ(bàn về việc Mã Viện chinh phủ Giao Chỉ) trong đó xem nhẹ Hai Bà Trưng, coi cuộc khởi nghĩa của họ là cuộc phản loạn của giới quý tộc chủ nô vùng Giao Chỉ chống lại tiến trình phong kiến hoá do vương triều Đông Hán tiến hành. Mặt khác bài viết cũng hết lời ca ngợi chiến công lịch sử của Mã Viện, khẳng định tính chính nghĩa của hành động quân sự của Mã Viện. Năm 1989, tôi tập hợp những bài viết đã và chưa công bố của tôi để biên tập thành cuốnTrung Việt quan hệ sử nghiên cứu tập cảo(Những bài nghiên cứu về lịch sử quan hệ Trung - Việt), chuẩn bị đưa đi xuất bản. Bài viếtLuận Mã Viện chinh Giao Chỉcũng được tuyển đăng trong cuốn sách này. Trong quá trình biên tập, mặc dù tôi đã chỉnh sửa nhưng luận điểm cơ bản của bài viết vẫn không thay đổi. Do khó khăn về kinh phí in ấn nên mãi tới tháng 5 - 1992; tác phẩm này mới được xuất bản. Thế nhưng, tháng 11 - 1991, quan hệ giữa hai Đảng và hai nước Trung - Việt đã được mở ra. Khi đó tôi đã ý thức được rằng, bài viết đó được viết năm 1979 nhưng nó lại được xuất hiện trong cuốn sách được xuất bản sau khi quan hệ Trung - Việt đã bình thường hoá là điều không hợp thời, có thể gây những ảnh hưởng không tốt. Quả nhiên, tháng 9 - 1995, tạp chíXưa & Naycủa Việt Nam (số tháng 9 1995) đã đăng bài viếtKhởi nghĩa Hai Bà Trưng trong một số sách sử Trung Quốccủa tác giả Vũ Phương. Bài viết đã giới thiệu sự đánh giá về việc Hai Bà Trưng dấy binh trong một số thư tịch Trung Quốc đã được công khai xuất bản từ những năm 50 tới thời gian gần đây. Bài báo đã đề cập đến các tác phẩm nhưTrung Quốc lịch sử giản biênxuất bản trong những năm 50 của Chu Nhất Lương và tác phẩmCổ đại Trung Việt quan hệ sử tư liệu tuyển biêndo Viện Lịch sử thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốc biên tập năm 1982. Bài báo chỉ rõ mấy bộ sách vừa nêu đều coi việc Hai Bà Trưng dấy binh là khởi nghĩa nhân dân đồng thời trích dẫn những cứ liệu có liên quan. Bài báo cũng phê bình bài viết được xuất bản năm 1992 của tôi vẫn coi khởi nghĩa Hai Bà Trưng là phản loạn và cho rằng đó không chỉ là sự diễn giải sai lệch đối với lịch sử mà còn làm tổn thương đến tình cảm thiêng liêng của nhân dân và giới sử học Việt Nam.
Bài viết trên tạp chíXưa & Naycủa Việt Nam có tác động rất lớn đối với tôi. Tôi đã nhìn nhận lại quá trình nghiên cứu của mình đối với vấn đề này, đã suy nghĩ lại. Bài viết của tôi được viết trong năm 1979 khi quan hệ Trung - Việt ở vào giai đoạn tương đối xấu, học thuật và chính trị hoà trộn lẫn nhau, ý chí và khí khái cũng vậy. Thế rồi sau khi quan hệ Trung - Việt đã bình thường hoá, khi nhân dân hai nước lại nói về tình hữu nghị đồng thời cùng nhau phát triển tình hữu nghị, càng ngày tôi càng cảm thấy hiệu quả khách quan do việc phát hành bài viết này đã gây thương tổn tới tình cảm dân tộc của nhân dân Việt Nam. Bởi vì, tại Việt Nam, Hai Bà Trưng thực sự là những người anh hùng rất đáng kính trọng trong lòng nhân dân Việt Nam hàng nghìn năm nay, không thể tuỳ tiện hạ thấp và bôi nhọ. Mỗi khi nghĩ tới điều này, tôi liền cảm thấy trong lòng có những hổ thẹn bất an.
Những năm sau đó, một mặt tôi đã chứng kiến hạnh phúc do sự phát triển toàn diện của quan hệ Trung - Việt đã tạo ra cho nhân dân hai nước từ sau khi quan hệ Trung Việt được bình thường hoá, đặc biệt là sau khi các nhà lãnh đạo của hai nước Việt Trung đã nêu ra phương châm 16 chữ “Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện”, quan hệ Việt Trung bước vào thời kỳ tốt nhất trong lịch sử, từ đó cảm thấy rằng việc nhân dân hai nước cùng nhau bảo vệ tình hữu nghị Trung Việt là vô cùng quan trọng. Mặt khác, từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay, tôi có rất nhiều cơ hội đi thăm Việt Nam, tiếp xúc rộng rãi với bạn bè các giới, luôn cảm động trước tình hữu nghị chân thành giữa các học giả và nhân dân hai nước Trung Việt. Đặc biệt là sau khi hàng loạt thành quả nghiên cứu của tôi với tiêu đềHồ Chí minh với Trung Quốcđược xuất bản đã nhận được sự hoan nghênh và đánh giá cao của các giới ở Việt Nam. Nhân dân Việt Nam cũng dành cho tôi những vinh dự cao quý, chẳng hạn như sự giới thiệu của báoNhân Dân, Đài truyền hình Việt Namvà các cơ quan truyền thông khác đối với thành quả của tôi, một số tác phẩm mà tôi biên tập đã được xuất bản tại Việt Nam, sự tiếp kiến mà các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam dành cho cá nhân tôi… Tất cả những động thái trên đây khiến tôi cảm động một cách sâu sắc.
Thông qua việc học tập những lời nói và việc làm của Chủ tịch Mao Trạch Đông và Thủ tướng Chu Ân Lai trong việc tôn trọng tình cảm dân tộc của nhân dân Việt Nam đã khiến lòng tôi vui vẻ thoải mái, thế là tôi bắt đầu lợi dụng cơ hội thích hợp để thay đổi quan điểm của mình. Tháng 6 - 2004 tại Hà Nội đã diễn ra lễ phát hành tác phẩmThơ chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh- chú giải, thư pháp do tôi chủ biên. Tranh thủ cơ hội này, tôi đã đến viếng đền thờ Hai Bà Trưng tại Hà Nội. Noi gương Thủ tướng Chu Ân Lai, tôi bày tỏ lòng tôn kính của mình đối với những người anh hùng trong tâm khảm nhân dân Việt Nam. Lúc đó, đền thờ Hai Bà Trưng đang được tiến hành tu sửa, tôi đã bớt chút tiền tiêu vặt mà cơ quan đón tiếp tặng tôi và một ít tiền của cá nhân tôi để đóng góp cho đền thờ dùng làm tiền hương hoả.








