Nhớ mãi những kỷ niệm về nhà thơ Xuân Diệu
Đầu năm 1975, đúng dịp Tết Nguyên đán, bà Ilêva Glebova sang thăm Việt Nam và được gặp Xuân Diệu. Hôm nay, khi chúng tôi tới thăm, ông bà vẫn nồng nhiệt nhắc lại những ấn tượng tốt đẹp về Nhà thơ của tuổi trẻ và tình yêu của Việt Nam .
Ra về, trời Mátxcơva mùa đông đầy tuyết trắng, thành phố đã lên đèn. Ý nghĩ viết một bài về nhà thơ Xuân Diệu lại trở về trong tôi. Ý tưởng này đã có từ lâu, nhưng mãi tời giờ tôi vẫn chưa dám thực hiện, bởi lẽ viết về một nhà thơ lớn như Xuân Diệu là điều chẳng giản đơn. Không ít học giả uyên thâm đã viết về Xuân Diệu. Hơn nữa, điều kiện ở nước bạn, tư liệu càng hiếm. Nay đọc xong cuốn Xuân Diệu thơ và đời(dày 416 trang, NXB Văn học ấn hành ở Hà Nội, 1996), tôi thêm yên lòng để hoàn thành bài viết nhỏ này - chỉ với ý định chép ra những kỷ niệm của riêng mình với nhà thơ.
... Dạo ấy vào một ngày cuối xuân, tôi ở trong nhóm phóng viên Thông tấn xã Việt Namlên tỉnh miền núi Yên Bái làm tin, ảnh chuyên đề về đề tài nông nghiệp. Tại nhà khách của Uỷ ban tỉnh, chúng tôi gặp nhà thơ Huy Cận (bấy giờ đương chức Thứ trưởng Bộ Văn hoá). Vốn thích văn học, yêu thơ, nên với tôi đây là một dịp thật vui. Ở nhà khách, chúng tôi có nhiều dịp đàm đạo với nhà thơ . Khi chia tay, Huy Cận dặn khi nào về Hà Nội thì lại chơi. Ông đọc địa chỉ nhà mình bằng hai câu văn vần: Nhà tôi hai bốn Cột Cờ/ Ai yêu thì đến, hững hờ thì đi.
Tôi nhập tâm ngay hai câu ấy, cho nên khi thấy ở một vài tài liệu viết là “Ai yêu thì đến, ai lờ thì qua” (1) thì nghĩ rằng không chính xác. Từ “lờ” lạ lẫm với văn cảnh này và cũng không gần với cách dùng từ thường thấy của cả hai ông. Hết đợt công tác ở Yên Bái, trở về Hà Nội, vào một buổi tối, tôi đến thăm nhà Huy Cận. Bấy giờ điện thoại còn hiếm, khi đến thăm nhà ai đó, ít người có thói quen và điều kiện gọi điện thoại báo trước. Vẫn dáng niềm nở có phần xuề xoà thường nhật, Huy Cận tiếp tôi tại phòng của nhà thơ Xuân Diệu. Ông giới thiệu tôi với “Nhà thơ của mùa xuân và tình yêu”. Thật may mắn, tôi được gặp cả hai nhà thơ lớn cùng một lúc trong khung cảnh gần gũi, thoải mái.
Chỗ ở của Xuân Diệu chỉ có một buồng - vừa là nơi ngủ, vừa là phòng làm việc, tiếp khách, phòng ăn. Giá sách lớn cũng ở đó. Về sau, được biết trong căn buồng này có một ngách nhỏ chứa đồ vặt. Nơi đây có kê một chiếc bàn và một ghế băng nhỏ. Những người đã trở nên thân quen (mà phần lớn là thanh niên) có thể vào đây đọc sách mỗi khi nhà thơ bận tiếp khách quan trọng hoặc những người tới sau. Tôi cũng đã mấy lần vào đây và được Xuân Diệu đưa cho đọc quyển sổ thơ tình chép tay của ông chưa bao giờ được công bố.
Rất nhanh, khoảng cách giữa chủ và khách chẳng còn bởi Xuân Diệu nói chuyện tự nhiên, lời nói, cử chỉ thân mật, giảng giải cho tôi kiến thức làm thơ. Ông chiếm được cảm tình và lòng mến mộ trong tôi ngay từ buổi đầu tiên gặp gỡ như thế. Sau đó, tôi được Cơ quan Thông tấn xã Việt Namcử đi Cuba học tiếng Tây Ban Nha và văn học Châu Mỹ Latinh. Thỉnh thoảng tôi vẫn dịch thơ gửi về đăng báo ở Hà Nội, trong đó có bài Cây đàn ghi ta của Víchto Hara(đăng trên báo Văn nghệ, nhạc sĩ Phan Nhân đã phổ nhạc bài thơ này của Phulích Pita Rôđrighết thành bài hát cùng tên, mà một thời được nhiều bạn trẻ Việt Nam yêu thích). Trở về nước, tôi sang giảng dạy văn học Châu Mỹ Latinh ở Đại học Sư phạm 1 Hà Nội, vẫn tiếp tục dịch thơ gửi đăng trên tạp chí Tác phẩm mớido Xuân Diệu làm Tổng biên tập.
Một hôm, tôi nhận được thư của Xuân Diệu, nhắn ra nhà chơi và tham gia dịch thơ Nicôla Ghiđen. Hôm sau tôi đạp xe xuống 24 Cột Cờ (tên mới là đường Điện Biên Phủ). Xuân Diệu nói đại ý: Dịp sang thăm Cuba, anh Cù Huy Cận nhận với Nicôla Ghiđen (2) sẽ dịch và xuất bản tác phẩm của nhà thơ Mỹ Latinh này ở Việt Nam . Nhưng anh ấy bận công tác thứ trưởng, nên Xuân Diệu phải thực hiện lời hứa.
Ông đề nghị, hàng ngày, hết giờ làm việc ở cơ quan thì tới nhà ông để dịch thơ, cố gắng để sau một tháng cho xong. Việc của tôi là đối chiếu bản dịch tiếng Việt với nguyên bản tiếng Tây Ban Nha (Xuân Diệu dịch qua bản dịch tiếng Pháp). Tôi cũng dịch trực tiếp từ nguyên bản một số bài. Về dịch thơ, Xuân Diệu nêu quan niệm rõ ràng – đó là công việc của những nhà thơ. Bài thơ dịch phải trung thành với ý của nguyên tác. Người dịch không được gò vần, tỉa tót, gọt đẽo quá mức mà thay đổi mất ý bài thơ. Ông lấy ví dụ cụ thể: một bài thơ hay như thể trang thiếu nữ đẹp. Nếu trang điểm quá cầu kỳ tới mức loè loẹt... thì chẳng còn là một phụ nữ đẹp nữa, có khi còn chẳng nhận ra đấy là phụ nữ.
Đọc thơ, Xuân Diệu nắm được tứ và thần thái tác phẩm rất nhanh; cho rằng, tác phẩm của những nhà thơ lớn như N. Ghiđenđều chứa đựng lôgích nghệ thuật nội tại. Từ ngữ trong bản dịch phải lột tả cho được điều ấy. Có thể lấy bài Míalàm một ví dụ:
Người da đen
gắn mình trong đồng mía
Tên Yăngki
phởn phơ trên đồng mía
Đất mỡ màu
lặng nằm dưới đồng lúa
Máu đỏ thắm
chảy ra ngoài chúng ta!
Hãy lưu ý những từ “trong”, “trên”, “dưới”, “ngoài” ở bản dịch của Xuân Diệu! Những ngày làm việc gần Xuân Diệu, tôi thấy ở ông một tấm gương về lao động nghệ thuật cần mẫn, sống chân thành, đôn hậu. Đêm nào Xuân Diệu cũng làm việc đến khuya. Món bồi dưỡng ban đêm thường là 1-2 quả trứng ngâm trong thuốc Bắc (do ông tự chế). Khi suy nghĩ và viết căng thẳng, ông có thói quen tự đấm tay lên đầu, miệng nói “đau óc quá”. Có lần nhà thơ bảo tôi: thấy việc gì làm được thì hãy cố gắng làm khi còn trẻ, đến khi sờ lên đầu thấy nắm tuổi to thì khó làm lắm.
Nửa thế kỷ lao động cật lực cho thơ – văn, Xuân Diệu cống hiến cho văn học nước nhà gần 50 đầu sách, thực hiện hơn 400 cuộc bình thơ ở khắp mọi miền, viết báo, biên tập, làm công tác xã hội... Quan niệm sống của Xuân Diệu rất rõ ràng: sống là để làm việc có ích cho đời:
Cái quả cam này đà vắt hết
Hiến cho non nước, hiến đời thân (3)
và: “Tôi là một trái cam, hãy vắt kiệt lấy nước của nó – đó là những dòng thơ tôi”(4). Xuân Diệu luôn sống hồn nhiên, như chẳng biết tới già nua bao giờ. Ông vui suốt buổi khi gặp một người dân bình thường thể hiện tấm lòng quý trọng nhà thơ: nhận ra thi sĩ Xuân Diệu đi mua hoa, bà lão bán hàng chọn giùm ông những bông hồng đẹp nhất; người bán nước mía ven đường nhất quyết không lấy tiền một ly nước mát biếu nhà nhà thơ. Về nhà, ông hồ hởi kể với người thân: mình đang còn có ích! Thế rồi lại ngồi vào bàn cặm cụi viết.
Xuân Diệu buồn và phản ứng tắp lự khi đang buổi bình thơ mà có người mất trật tự vì một lý do gì đó (cho dù lý do ấy có thể thông cảm). Ông đọc đi đọc lại hai lần câu thơ của mình: “Lòng ta là một cơn mưa lũ/ Đã gặp lòng em là lá khoai”.
Cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ lớn Xuân Diệu thể hiện minh bạch một quan niệm về thế nào là hạnh phúc? - một câu hỏi lớn cho hôm nay và mai sau mà người đời chẳng dễ thống nhất cùng nhau!
Thật hiếm thấy nhà văn nào lại quý trọng lớp người viết văn trẻ như Xuân Diệu. Chưa thấy ai tới hỏi về thơ mà ông từ chối tiếp đón ân cần. Khách ra về, việc đưa tiễn là thói quen của nhà thơ; nhiều khi tiễn bạn văn tới tận gốc cây hoàng lan, hay bóng của vòm cây phía trên cổng rồi đứng lại đàm đạo hồi lâu. Như có sự sắp đặt trước của định mệnh, tác phẩm kỳ công cuối cùng của Xuân Diệu là bản tham luận Sự uyên bác với việc làm thơ,được công bố tại Hội nghị những người viết văn trẻ lần thứ III vào sáng ngày 19-12-1985 ở Hà Nội (chỉ sau hơn mười tiếng đồng hồ nhà thơ trút hơi thở cuối cùng ở bệnh viện Hữu nghị Việt – Xô). Khi nhà văn Lữ Huy Nguyên đọc hết dòng cuối của nguyên tác Xin cám ơn sự theo dõi của các bạn – Xuân Diệuthì cả hội trường lặng đi, chỉ còn nghe rõ tiếng nấc sụt sùi. Phải chăng dòng chữ này thay cho tập hồi ký Tôi xin cám ơn cuộc đờimà nhà thơ dự định viết, nhưng chưa kịp bắt đầu?
Trong bài viết này, thấy cần nói đôi dòng về một người phụ nữ (tôi chưa gặp trong các bài viết về Xuân Diệu) mà nhiều năm tháng đã quan tâm tới đời sống của nhà thơ. Đó là u Khang. Bà hơn tuổi Xuân Diệu, từ nông thôn ra Hà Nội giúp việc cho nhà thơ đã lâu và sống cho đến cuối đời ở đây. Chúng tôi theo Xuân Diệu đều gọi bà là u Khang. Cứ tối tối, sau khi cơm nước xong, bà lại từ phòng riêng phía nhà bếp đi lên, lễ phép nói với Xuân Diệu: “Ngày mai, bác ăn gì”; biết “thực đơn” bao giờ cũng rất đơn giản, rồi nhận tiền cho đủ sau khi tính toán tiền chợ hôm nay còn lại. Bà vui khi thấy Xuân Diệu ăn ngon miệng và buồn khi trong nhà có chuyện chẳng lành. Hồi ấy còn chế độ bao cấp, một hôm kẻ gian vào nhà lấy đi toàn bộ phiếu mua thực phẩm cung cấp của Xuân Diệu. Bà lo lắng, bới tìm khắp các xó nhà, tiếc mãi như chính mình bị mất của quý.
Trong đời sống thường này, Xuân Diệu căn cơ, sòng phẳng, song cũng rất chu đáo, luôn quan tâm đến người những xung quanh một cách rất cụ thể. Một lần, tôi về thăm quê ở vùng trung du Phú Thọ. Khi trở ra Hà Nội, mẹ tôi gửi biếu Xuân Diệu quả mít duy nhất có trong vườn nhà năm ấy. Mãi mấy hôm sau, tôi từ trường ra nhà Xuân Diệu vẫn thấy quả mít còn nguyên tuy đã chín lắm. Ông nói: “Đợi em ra cùng ăn. Năm nay trên ấy mất mùa hoa quả”. Nhà thơ còn hẹn chờ dịp thuận tiện sẽ lên thăm cha mẹ tôi ở Phú Thọ và nói chuyện thơ để cả làng nghe cho có tiếng thơm.
Có một kỷ niệm mà cả gia đình tôi còn nhớ mãi: Nhà thơ Xuân Diệu đạp xe đến dự lễ cưới của chúng tôi tổ chức ở sân tập thể khối phố. Món quà mà ông trao tặng thật là quý vô giá. Đó là hai bài thơ tình yêu do ông tự đọc trước hội hôn. Khi Xuân Diệu đọc thơ, cả bà con khối phố lắng nghe, vỗ tay tán thưởng hồi lâu.
Trong tháng dịch thơ Nicôla Ghiđen, có đêm tôi phải nghỉ lại ở nhà Xuân Diệu vì đường về Đại học Sư phạm Cầu Giấy vừa xa, vừa vắng. Xuân Diệu tự tay lấy giường xếp, chăn màn cho tôi, dặn mắc màn cẩn thận kẻo muỗi đốt. Ông cũng không quên nhắc phải khoá xe đạp cho yên tâm.
Năm 1981 (5), tập thơ Nicôla Ghiđenđược xuất bản tại Hà Nội. Với tôi, đó là một kỷ niệm đẹp và cũng là dịp học tập được nhiều điều ở nhà thơ lớn.
Đầu năm 1985, Xuân Diệu tham gia Đoàn đại biểu Việt Namdự Tuần lễ văn hoá Việt Nam tại Liên Xô. Khi ấy tôi đang làm nghiên cứu sinh ở trường đại học Tổng hợp quốc gia Mátxvơva mang tên Lômônôsôv. Chẳng ngờ lần ra thăm nhà thơ ở khách sạn Mátxvơva này lại là lần cuối cùng tôi được gặp ông.
Tin nhà thơ Xuân Diệu qua đời ngày 18-12 năm ấy, tôi đón nhận qua tờ báo Văn nghệ Việt Nam . Suốt ngày hôm ấy, tôi bồn chồn không yên, cứ nghĩ đến Xuân Diệu là nước mắt lại ứa ra không cầm được. Thế là hẹn ước của ông về thăm quê tôi và nói chuyện thơ cho dân làng Tiên Châu của tôi nghe chẳng bao giờp có thể thực hiện được nữa!
Xuân Diệu “Giã từ... cõi thực đế vào hư”– như nhà thơ tự nói về mình trong bài “Không đề”, đến nay đã tròn mười lăm năm. Mười lăm mùa Xuân đã đi qua! Thi đàn Việt Nam vẫn trống vắng một khoảng lớn, chưa có gì thay thế được Xuân Diệu. Không ít người làm thơ và bạn đọc dường như vẫn chưa quen được thiếu Xuân Diệu trên cõi đời.
---------------------------
(1)Xem “Xuân Diệu thơ và đời, tr.167 và 191
(2)Nicolás Guillén (1902-1988): nhà thơ lớn Châu Mỹ Latinh, người cầm đầu trường phái thơ đen (poesia negra) và “thơ lai” trong nền văn học bằng tiếng Tây Ban Nha; nguyên là Chủ tịch Hội Văn học và nghệ thuật Cuba
(3)Bài thơ “Không đề”
(4)Theo nhà văn Liên Xô Alêchxây Vaxiliép, sách đã dẫn, tr.236
(5)Trong mục “Xuân Diệu niên biểu tóm tắt của sách “Xuân Diệu thơ và đời” viết: “-1982; Dự lễ mừng thọ nhà thơ dân tộc Cuba Nicôla Ghiden bảy mươi tuổi tại La Habana, dịch và giứoi thiệu Thơ Nicôla Ghiden (1982)”. Như vậy không chính xác: Xuân Diệu cho in thơ Nicôla Ghiden năm 1981. Nhà thơ Nicola Ghiden sinh ngày 10-7-1902. Đến năm 1982, ông thọ 80 tuổi.