Nhớ chặng đường đầu tiên
Bộ Giao thông công chính là cơ quan đầu ngành hồi ấy bao gồm: Sở Thanh tra công chính, Sở Hỏa xa T.Ư, Sở Thiên văn và Đài Thiên văn Phủ Liễn, Sở Vô Tuyến Điện tử T.Ư, Sở Hàng hải thương thuyền, Sở Hàng không, Sở Hải chính, Phòng Hàng không…
Tham mưu, giúp việc của Bộ có: Văn phòng, Ty Tố Tụng và Pháp chế, Ty Chuyên môn công chính, Ty giao thông, Ty Kiến thiết đô thị và Kiến trúc, Trường Cao đẳng Giao thông công chính.
Ở các tỉnh, thành phố có Ty Giao thông công chính. Đó là hệ thống tổ chức bộ máy quản lý của chế độ cũ để lại tại thời điểm chúng ta từ chiến khu Việt Bắc về tiếp quản.
Theo hồ sơ quản lý thì hồi ấy mạng lưới giao thông đường bộ trong toàn quốc chỉ có 6.182 km, trong đó có 2.632 km rải nhựa, 2.616 km không rải nhựa, 914 đường đang thi công dở dang.
Mật độ đường sá địa phương bình quân cứ 1.000 km2 có 537 km đường, trong đó chỉ có 29,8 km đường cán đá, rải nhựa.
Các trục đường bộ được thiết lập trong thời kỳ Pháp do xây dựng vội vàng nên bộc lộ nhiều nhược điểm: tiêu chuẩn kỹ thuật thấp (nền đường hẹp, chỉ có 2,5 - 3,5 m; độ dốc lớn; đường cong hẹp, nhất là trên đường miền núi).
Hệ thống đường sắt có trên 2.600 km xây dựng xong từ tháng 10 năm 1936. Phương tiện vận chuyển chỉ có 235 đầu máy hơi nước thuộc 10 loại và 3.418 toa xe thuộc 20 loại, trong đó có 2.960 toa chở hàng. Nhiều đầu máy, toa xe đã cũ nát, hư hỏng nặng…
Vận tải thủy với lực lượng nhỏ yếu nằm trong tay một số hàng tàu tư nhân người Việt trực tiếp kinh doanh và một số hãng do người Việt và người Pháp góp vốn. Vận tải đường bộ chỉ có vài chục hãng ô tô tư nhân.
Hệ thống cảng biển và sông được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX gồm: cảng Sài Gòn, cảng Hải Phòng, cảng Bến Thủy, cảng Đà Nẵng, cảng Quy Nhơn, cảng Ba Ngòi, cảng Hòn Gai và cảng Cẩm Phả. Các cảng phụ khác như Nha Trang, Phan Rang, Phan Thiết… cũng được xây dựng để các tàu, thuyền ven biển ghé bến chuyển hàng ra các cảng lớn để xuất khẩu.
Bộ Giao thông công chính tiếp quản toàn bộ cơ ngơi chuyên ngành do chế độ cũ để lại, nhanh chóng triển khai việc điều hành các mặt hoạt động trên mạng lưới giao thông sắt, sông, biển, bộ… được thông suốt kịp thời.
Riêng Nam bộ, quân Pháp nổ súng gây chiến ở Sài Gòn đêm 22 rạng ngày 23 - 12 - 1945.
Dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Kháng chiến và Tổng bộ Việt Minh nhân dân Sài Gòn và Nam bộ đã hăng hái tham gia kháng chiến.
Các lực lượng GTVT miền Nam ra quân ngay từ những ngày đầu. Nhiều con đường, cây cầu, bến cảng, nhà bưu điện trở thành những cứ điểm chiến đấu của quân dân ta như: khu Tân Định, cầu Thái Liêu, cầu Muối, cầu chữ Y, ngã ba Chú Lá, cầu Bến Phân… Phối hợp với các lực lượng chiến đấu chặn đánh các đoàn xe vận tải của địch, các lực lượng GTVT được tổ chức thành 300 đội của thanh niên xung phong, của công đoàn trong thành phố hăng hái tham gia chiến đấu, tháo dỡ máy móc thiết bị, di chuyển ra các chiến khu kháng chiến.
Cầu đường của Sài Gòn là cứ điểm, là chiến lũy đánh địch, điển hình như cuộc tiến công địch trên đường Năng Ri (Nguyễn Văn Cừ), đường Galieni (Trần Hưng Đạo) và trận đánh xuất sắc ở cầu Thị Nghè.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ ra lời kêu gọi nhân dân cả nước chi viện sức người, sức của cho cuộc kháng chiến ở miền Nam. Giao thông đường sắt đã tổ chức nhiều đoàn tàu chở quân Nam Tiến (chuyến tàu đầu tiên rời Hà Nội từ đêm ngày 26 - 9 - 1945 chở 3 đại đội Bắc Sơn, Bắc Kạn và Hà Nội).
Tiếp đó, nhiều đội tự vệ của công nhân và thanh niên thị xã Vinh (Nghệ An) lên tàu Nam Tiến chi viện cho chiến trường Nam Bộ, Tây Nguyên… Tại Quảng Nam, Đà Nẵng, thủy đội Bạch Đằng, đại đội Phan Thanh và trung đội Hồ Cập lên đường Nam Tiến.
Trong hai tháng 9 và 10 năm 1945, công nhân Nhà máy xe lửa Dĩ An và các nhà ga phía Nam ra sức tháo dỡ máy móc thiết bị vật tư đem vào chiến khu, lập các xưởng quân giới ở Thủ Dầu Một, Biên Hòa và đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn…
Ngày 22 - 10 - 1945, địch đổ bộ lên Nha Trang. Các lực lượng GTVT tham gia chiến đấu, tiến công địch ở Cầu Đá, Cầu Dừa, đốt kho xăng địch, cắt đứt các đường giao thông để vây hãm địch.
Đặc biệt ngày 23 - 10 - 1945, công nhân và tự vệ phối hợp nhau đánh nhiều trận giữ nhà ga Nha Trang, đèo Rù Rì, hầm Núi Sạn… Ban cơ khí vận tải của Khánh Hòa (tiền thân của Sở GTVT Khánh Hòa) đã huy động một khối lượng vật tư, thiết bị, phương tiện và nhân lực phục vụ chiến đấu 101 ngày đêm ở Khánh Hòa, giữ vững tuyến giao thông liên lạc và vận tải phục vụ Nam Bộ kháng chiến.
Nhiều đội thuyền tử Bình Sơn và Đức Phổ (Quảng Ngãi) đã vận chuyển lương thực, muối, vũ khí, đạn dược chi viện cho mặt trận phía Nam.
Trong tháng 10 - 1945, trên địa bàn Phú Yên, các lực lượng GTVT Phú Yên đã tổ chức vận tải lương thực, thực phẩm, súng đạn tiếp tế cho 8 chi đội và 7 đại đội Nam Tiến vào chiến trường Nha Trang, Tây Nguyên, Nam Bộ.
Từ tháng 11 - 1945, Bộ Quốc phòng cùng ngành Đường Sắt đã tổ chức hàng chục chuyến xe lửa, chở hàng ngàn tấn gạo, trên 4.000 tấn chăn chiên, 8.000 m vải kaki, hàng ngàn quần áo, khăn len và nhiều vũ khí, đạn dược vào chi viện cho miền Nam kháng chiến.
Ngày 6 - 1 - 1946, cuộc bầu cử Quốc hội khóa đầu tiên được tiến hành trong cả nước thành công tốt đẹp. Quốc hội lập ra Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bộ Giao thông công chính (GTCC) trực thuộc Chính phủ, do kỹ sư Trần Đăng Khoa làm Bộ trưởng, kỹ sư Đặng Phúc Thông làm Thứ trưởng kiêm giám đốc Sở Hỏa Xa.
Trong hoàn cảnh đất nước mới khai sinh, Chính quyền non trẻ đã phải đương đầu với thù trong, giặc ngoài, Bộ GTCC đảm nhận các nhiệm vụ nặng nề: vừa vận tải quân lương phục vụ cuộc kháng chiến ở Nam Bộ vừa phá hoại cầu đường ngăn bước tiến của địch, đồng thời thiết lập đường dây giao liên, giao thông phục vụ lãnh đạo từ Bắc chí Nam; vừa vận tải hàng hóa hành khách lưu thông giữa các vùng trong cả nước; phục vụ các chiến trường và chiến dịch ở Thượng Lào, Hạ Lào, Trung Lào và Campuchia…
Từ tháng 3 đến tháng 5 năm 1946, đường sắt đã góp phần quan trọng trong việc tổ chức các đoàn tàu đưa quân Tưởng từ Đà Nẵng và các tỉnh miền Trung ra Hà Nội. Sau đó, ta tổ chức các đoàn tàu Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Lạng Sơn, Hà Nội - Lào Cai đưa toàn bộ 20 vạn quân Tưởng rút khỏi nước ta.
Đặc biệt, ngành đường sắt đã tổ chức tốt chuyến tàu đưa Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Hải Phòng về Hà Nội sau 5 tháng thăm nước Pháp theo lời mời của Chính phủ Pháp với tư cách là thượng khách của nước Pháp.
Năm 1946 là năm quân dân ta tranh thủ thời gian hòa hoãn sau Hiệp định sơ bộ ngày 6/3 và Tạm ước 14/9 để củng cố lực lượng, lập 12 chiến khu trong cả nước để chuẩn bị đương đầu với âm mưu gây chiến của địch.
Ngày 30 - 10 - 1946, Pháp đánh chiếm Hải Phòng rồi đánh chiếm Lạng Sơn ngày 20 - 11 nhằm bịt hai cửa ngõ đường thủy và đường bộ Việt Nam. Chúng “dùng biện pháp quân sự để giải quyết mối quan hệ Việt - Pháp” (như nghị quyết Ủy ban Liên bộ về Đông Dương của Pháp) gây ra vụ tàn sát ở các phố Yên Ninh, Hàng Bún (Hà Nội, ngày 17 - 12) và nhiều nơi khác.
Ngày 18 - 12 - 1946, Thường vụ T.Ư họp hội nghị mở rộng ở Vạn Phúc (Hà Đông) hạ quyết tâm đánh trước để dành chủ động.
Đến 20 giờ ngày 19 - 12 - 1946, lệnh Toàn quốc kháng chiến được phát đi trên đài Tiếng nói Việt Nam.
Cho đến thời điểm lịch sử này, quốc lộ 1A từ Lạng sơn đến Ninh Hòa (Khánh Hòa vẫn nằm gọn trong vùng tự do, thuộc sự kiểm soát của chính quyền cách mạng).
Cũng từ giờ phút đó, các lực lượng của ngành Giao thông vận tải cùng nhân dân cả nước bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm gian khổ và anh dũng, kết thúc bằng chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử đại thắng lợi.








