Nhân vật Phạm Hữu Lầu
Cuối năm 1929 đầu năm 1930, với tư tưởng giải phóng dân tộc và những hoạt động không mệt mỏi của Nguyễn Ái Quốc, ở Việt Nam lần lượt xuất hiện 3 tổ chức cộng sản là “Đông Dương Cộng sản Đảng”, “An Nam Cộng sản Đảng” và “Đông Dương Cộng sản Liên đoàn”. Sự ra đời và hoạt động của 3 tổ chức cộng sản trên thể hiện sự phát triển của phong trào cách mạng của nhân dân ta, yêu cầu bức xúc về việc thành lập một chính đảng vô sản ở Việt Nam, đồng thời cũng tạo nên những tác hại có nguy cơ làm tan rã và suy yếu phong trào cách mạng, trái với nguyên tắc tổ chức của Quốc tế Cộng sản là trong một quốc gia không thể đồng thời cùng tồn tại nhiều tổ chức cộng sản. Nắm bắt được tình hình và yêu cầu bức thiết đó, đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ động triệu tập và chủ trì hội nghị tại Hồng Kông (Trung Quốc) hợp nhất hai tổ chức cộng sản là “Đông Dương Cộng sản Đảng” và “An Nam Cộng sản Đảng” thành Đảng Cộng sản Việt Nam (2). Hội nghị diễn ra từ ngày 6-1-1930.
Tại Nam kỳ, hai đồng chí Việt (tức Châu Văn Liêm) và Nghĩa (tức Nguyễn Nghĩa, Nguyễn Thiệu) với tư cách là đại biểu của Quốc tế Cộng sản đã trao đổi và chỉ đạo các nhóm cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng (bộ phận Nam kỳ) và An Nam cộng sản Đảng lựa chọn, giới thiệu mỗi bên một người tham gia Ban chấp hành Trung ương lâm thời. Tiêu chuẩn đặt ra đối với đại biểu của An Nam tham gia ban Trung ương lâm thời là: “1) Phải là đồng chí xuất thân từ thành phần công nhân mà ra hoặc tối thiểu cũng phải là một đồng chí đương làm công nhân; 2) Phải là một đồng chí nắm sát và am hiểu tình hình trong Nam kỳ cho nên cũng cần chọn một đồng chí quê ở Nam Kỳ. Nếu không thì cũng phải là đồng chí đã làm việc lâu năm ở trong Nam” (3).
Là một người xuất thân từ gia đình thợ thủ công nghèo, từng làm thợ sơn, thợ may, thợ cắt tóc (4), sớm giác ngộ và tham gia hoạt động cách mạng, đã trải qua quá trình rèn luyện phấn đấu, là hội viên Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (tháng 9-1928), đi “vô sản hoá” ở Đềpô xe lửa Dĩ An (tháng 9-1929), trở thành một trong những đảng viên An Nam Cộng sản Đảng đầu tiên ở Nam kỳ, được bầu vào Ban Chỉ đạo lâm thời. Sự hiện diện của Phạm Hữu Lầu, người Nam kỳ duy nhất và là đại diện duy nhất cho tổ chức An Nam cộng sản Đảng tại cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của đồng chí trước vận mệnh của Đảng, góp phần làm cho công cuộc hợp nhất Đảng diễn ra thuận lợi, làm cho cơ quan Trung ương được tổ chức theo đúng phương thức đã được Hội nghị Hợp nhất Đảng đề ra, không giống như “kịch bản” chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản (5). Đây chính là một sản phẩm phù hợp với đặc điểm của phong trào cách mạng Việt Nam ở thời điểm 1930 và mang đậm dấu ấn của Nguyễn Ái Quốc.
Sau khi được đề cử vào Trung ương lâm thời vào tháng 2-1930, nhận thức rõ trọng trách cũng như những yêu cầu về trình độ lý luận và sự am hiểu thực tế của một uỷ viên Trung ương, tại một căn nhà lá nhỏ hẹp ở xóm thợ thuyền Khánh Hội, được sự giúp đỡ của hai đồng chí Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu, đồng chí Phạm Hữu Lầu cùng đồng chí Hạ Bá Cang (tức Hoàng Quốc Việt), đã tích cực học tập một số vấn đề cơ bản về lý luận và công tác cách mạng, nghiên cứu các văn kiện của Hội nghị Hợp nhất, tài liệu của Đại hội lần thứ VI Quốc tế cộng sản, nhất là phần luận cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Qua đó, đồng chí nắm bắt được những nét chính yếu về tình hình cách mạng thế giới, phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa; sự khác nhau của cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở các xứ thuộc địa với các nước độc lập là cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở các thuộc địa phải gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc; nhiệm vụ của Đảng Cộng sản ở các nước thuộc địa về vấn đề cách mạng ruộng đất, vấn đề liên minh phản đế, vấn đề bá quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân.. Đồng chí cũng thấu rõ hơn một số đặc điểm về thành phần đảng viên, về tổ chức Đảng ở một nước thuộc địa; nắm rõ hơn quan điểm của Đại hội lần thứ VI Quốc tế Cộng sản cũng là quan điểm được Hội nghị hợp nhất quán triệt là “Một nước thuộc địa muốn giải phóng dân tộc thì cần phải dựa vào lực lượng của quần chúng mà đại bộ phận là công nhân và nông dân lao động”. Đồng chí cũng được Ban Lâm thời Chấp uỷ của Đảng Cộng sản Việt Nam ở Nam kỳ giới thiệu những nét chính về tình hình mọi mặt trong xứ nhằm phục vụ cho việc thực thi chức trách của các uỷ viên Trung ương.
Trong thời gian học tập, nghiên cứu lý luận, chờ ra Bắc dự hội nghị đầu tiên của Trung ương lâm thời theo như kế hoạch đã định tại Hội nghị Hợp nhất, đồng chí Phạm Hữu Lầu cùng với đồng chí Hạ Bá Cang thực hiện nhiệm vụ của “địa bộ phận TƯ” (6)chỉ đạo các tỉnh, thành lập bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tại khu vực Nam kỳ. Hội nghị Trung ương tháng 10-1930 khi đề cập đến cách thức tổ chức và hoạt động của Ban Trung ương lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam sau Hội nghị Hợp nhất, đã viết “T.Ư (7 người) trực tiếp chỉ huy các tỉnh bộ” (7). Báo cáo mật số 1521-S, gnày 28-4-1931, của chánh Sở Cảnh sát Nam kỳ Nadaut về Hoạt động cách mạng cộng sản ở Đông Dương, có đoạn viết: “Ngay tháng 2-1930, các đại biểu cho các nhóm hợp thành Việt Nam Cộng sản Đảng đã bầu các đại biểu vào Trugn ương. Ở mỗi xứ các đại biểu này là thành phần của Ban Chấp hành Trung ương mang tên là “phân cục”. Phạm Hữu Lầu (Lộ) ngay từ ban đầu là thành phần của “phân cục” Nam kỳ (8).
Thực hiện chức trách của uỷ viên Trung ương, theo tư tưởng chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc như kế hoạch đã định tại Hội nghị Hợp nhất, trước yêu cầu của Đông Dương cộng sản Liên đoàn, đồng chí Phạm Hữu Lầu cùng với các đồng chí Hạ Bá Cang - uỷ viên Trung ương Lâm thời, Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu – hai đại biểu của quốc tế Cộng sản và Ngô Gia Tự - Bí thư Lâm thời Chấp uỷ của Đảng Cộng sản Việt Nam ở Nam kỳ đã mở hội nghị vào ngày 24-2-1930 ra quyết nghị về việc “Chấp hành Đông Dương cộng sản liên đoàn gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam” (9).
Đồng chí Phạm Hữu Lầu còn đồng thời tham gia Lâm thời Chấp hành uỷ viên hội (gọi tắt là Lâm thời Chấp uỷ) của Đảng Cộng sản Việt Nam ở Nam kỳ trực tiếp tham gia điều hành việc xây dựng hệ thống tổ chức Đảng và lãnh đạo phong trào cách mạng ở địa bàn Nam kỳ (10). Hoạt động của đồng chí đã góp phần làm cho hệ thống tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Namở Nam kỳ nhanh chóng được củng cố và phát triển. Đến tháng 5-1930, 15 tỉnh, thành phố trên địa bàn Nam kỳ đã có tổ chức Đảng hoạt động là: Biên Hoà, Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, Sa Đéc, Cần Thơ, Mỹ Tho, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Long Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá, Bạc Liêu. Trong đó, có sáu tỉnh, thành phố tổ chức được cơ quan lãnh đạo cấp tỉnh, thành phố là Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Tân An, Mỹ Tho, Long Xuyên.
Tháng 4-1930, đồng chí Phạm Hữu Lầu cùng với các uỷ viên Trung ương lâm thời ở Nam kỳ và Trung kỳ được triệu tập ra Bắc để tổ chức hội nghị lập Trung ương chính thức. Sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc dân Đảng phát động, nhất là các hoạt động kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1-5-1930 do Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, chính quyền thuộc địa đẩy mạnh các hoạt động khủng bố, truy tìm những người lãnh đạo của đảng mà chúng biết Ban chấp hành Trung ương có 7 thành viên (14), nên việc tìm địa điểm an toàn mở hội nghị gặp nhiều khó khăn. Hội nghị chưa tiến hành được thì một số uỷ viên Trung ương lâm thời lần lượt sa lưới mật thám (11).
Sau khi đồng chí Sáu (Hạ Bá Cang) là đại biểu của Nam kỳ bị bắt, đồng chí Phạm Hữu Lầu trở về Nam kỳ và cùng Ban lâm thời Chấp uỷ tiến hành cuộc hội nghị mở rộng vào tháng 6-1930, chỉ định Ngô Đức Trì (tức Vân) tham gia Trung ương lâm thời thay đồng chí Hạ Bá Cang. Sau đó ít lâu, Đảng bộ Hoa kiều tại Sài Gòn - Chợ Lớn đề cử đồng chí A Lầu (tức Lưu Lập Đạo) đại diện cho bộ phận đảng viên người Hoa tham gia vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời.
Tháng 7-1930, theo triệu tập của Ban Thường vụ Trung ương lâm thời, đồng chí Phạm Hữu Lầu (đại diện cho Địa bộ phận Trung ương ở Nam kỳ), Nguyễn Phong Sắc (địa diện cho Địa bộ phận Trung ương ở Trung kỳ) ra Bắc cùng Ban Thường vụ họp hội nghị trù bị bàn các biện pháp mở hội nghị Trung ương. Công việc đang tiến hành thì Ban Thường vụ Trung ương nhận được thư của đồng chí Nguyễn Ái Quốc từ Hồng Công gửi về mời các đồng chí Trung ương lâm thời sang Hồng Công tổ chức hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương (12). Ngày 24-7-1930, trong khi xuống tàu tại cảng Hải Phòng sang Hồng Công để tham dự Hội nghị thành lập Trung ương chính thức thì đồng chí Phạm Hữu Lầu bị bắt. Báo cáo mật số 1521-S, ngày 28-4-1931, của Chánh Sở cảnh sát Nam kỳ Na-daut, ghi rõ: “Phạm Hữu Lầu (Lộ), lên đường ra Bắc kỳ sau khi Ngô Đức Trì (Vân) được bầu vào Trung ương, rồi bị bắt tại Hải Phòng ngày 24-7”.
Bắt được Phạm Hữu Lầu, mật thám Pháp tiến hành thẩm vấn khai thác thông tin và buộc tội đồng chí. Sáu ngày sau khi bắt được Phạm Hữu Lầu, vào ngày 30-7-1930, Hội đồng đề hình Hà Nội họp tại Hoả Lò tiến hành thẩm vấn và buộc tội đồng chí là “từ gần mười năm nay, tham gia một cuộc âm mưu nhằm phá hoại và thay đổi chính phủ Đông Dương và kích động các công dân hoặc là dân thường vũ trang chống lại các nhà cầm quyền, đã chuẩn bị tiến hành thực hiện các âm mưu đó (13). Chúng buộc tội đồng chí theo các điều khoảng 87,88, 89 của Luật hình đã được sửa đổi theo sắc lệnh ngày 31-12-1912. Đồng chí Phạm Hữu Lầu đã phủ nhận toàn bộ các cáo buộc của địch.
Sau một thời gian giam giữ tại Hoả Lò (Hà Nội), đồng chí Phạm Hữu Lầu lại bị Mật thám Pháp chuyển xuống Hải Phòng để tiếp tục thẩm vấn. Ngày 11-12-1930, Viên cẩm mật thám Rernèr Jean Baptiste tiến hành hỏi cung đồng chí. Tại cuộc thẩm vấn này, trả lời câu hỏi của mật thám Pháp rằng theo các tài liệu mà chúng bắt được Phạm Hữu Lầu “là phái viên của Ban Trung ương ở Nam kỳ ra gặp Ban trung ương ở Bắc kỳ” (14), đồng chí thừa nhận tham gia Đảng cộng sản từ tháng Giêng năm 1930, mục tiêu của Đảng là “làm cách mạng và đánh đuổi người Pháp khỏi Đông Dương”, được cử ra Bắc để thành lập Trung ương, đến Hải Phòng thì bị bắt. Trước những tra hỏi của chúng về tổ chức và nhân sự của Đảng, đồng chí chỉ đưa ra một số tên người mà trong biên bản hỏi cung, mật thám Pháp ghi là “nói không đúng sự thật”.
Tiếp đó, tại buổi hỏi cung do Hội đồng đề hình tiến hành ngày 17-12-1930 tại Bệnh viện người Hoa ở Hải Phòng, đồng chí Phạm Hữu Lâu vẫn trả lời rằng tất cả mọi việc do một người tên Hưng sắp đặt, Ban Trung ương dự định thành lập ở Bắc kỳ chỉ có tính chất lâm thời nhưng chưa thực hiện được nhiệm vụ thì đã bị bắt” (15).
Những bản cung dẫn ra trên đây chắc chắn không phản ánh được những trận đòn và những thủ đoạn tra tấn dã man của mật thám Pháp đối với đồng chí Phạm Hữu Lầu, nhưng phần nào cho chúng ta biết được khí tiết kiên trung của đồng chí trước kẻ thù để bảo vệ Đảng, bảo vệ tổ chức khi sa vào tay địch.
Thời gian đồng chí tham gia Trung ương lâm thời tuy ngắn ngủi, hoàn cảnh địch khuảng bố phong trào cách mạng năm 1930 đã gây nhiều khó khăn cho việc thực hiện chức trách của một uỷ viên Trung ương, song đồng chí Phạm Hữu Lầu đã nêu một tấm gương quả cảm và kiên định, có những đóng góp quan trọng trong việc hình thành, củng cố và phát triển hệ thống tổ chức Đảng, nhất là việc xây dựng cơ quan đầu não đầu tiên của Đảng ta. Những trải nghiệm của đồng chí trong vai trò uỷ viên trung ương năm 1930 là cơ sở để đồng chí tiếp tục dấn thân trong cuộc đời hoạt động cách mạng, đảm nhận những cương vị cao và hoàn thành xuất sắc những trọng trách do Đảng giao phó trong sự nghiệp chống thực dân, đế quốc và tay sai vì độc lập, tự do, thống nhất đất nước.
Chú thích:
(1) Có tài liệu viết đồng chí làm quyền Bí thư Xứ uỷ Nam bộ những năm 1957-1959. Trong cuộc toạ đàm về Xứ uỷ Nam bộ, Trung ương Cục miền Nam (1954-1975), tổ chức tại TP Hồ Chí Minh, ngày 29-9-1998, đồng chí Trần Bạch Đằng và đồng chí Phan Minh Tánh phát biểu rằng: sau khi đồng chí Lê Duẩn ra Bắc, đồng chí Phạm Hữu Lầu, Phó Bí thư Xứ uỷ đã chủ trì điều hành công việc của Xứ uỷ Nam bộ một thời gian. Đến giữa năm 1958, bệnh của đồng chí Lầu nặng lên, đồng chí Nguyễn Văn Linh từ Sài Gòn về làm Quyền Bí thư Xứ uỷ một thời gian, sau làm Bí thư Xứ uỷ.
(2) Khi triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất, Nguyễn Ái Quốc chưa biết Tân Việt đã cải biến thành Đông Dương Cộng sản liên đoàn nên không triệu tập đại biểu của tổ chức này.
(3) Nguyễn Nghĩa –Góp thêm một số ít tài liệu về công cuộc hợp nhất các tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, Công cuộc hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước sau Hội nghị Hương Cảng và việc tổ chức Ban Trung ương lâm thời, Tạpchí Nghiêncứu lịch sử, số 62(5), tr.54-59.
(4) Trong Biên bản hỏi cung Phạm Hữu Lầu tại Hội đồng đề hình họp tại Hà Nội, ngày 30-7-1930, Mật thám Pháp ghi nghề nghiệp của đồng chí là thợ sơn.Xem Commission criminell de Hanoi (le 30 Juilett 1930), Inter-rogatiore Pham Huu Lau, Hanoi, bản Microphim. Lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
(5)Xem : Trần Trọng Thơ - về sự hình thành Ban Chấp hành Trung ương đảng năm1930, Tạp chí Lịch sử Đảng, 188 (7-2006), tr.53-56.
(6) Văn kiện Đảng, T2, Sđ d, tr.237. Có tài liệu viết rằng đó là các "phân cục Trung ương" ở các xứ.
(7) Văn kiện Đảng, T.2, tr.111








