Nhận thức và thực hiện đúng theo Chỉ thị 45 là tạo điều kiện cho Liên hiệp hội phát triển
- Thưa ông, chúng tôi được biết là vừa qua Liên hiệp hội Việt Nam và Ban Tuyên giáo TW đã tổ chức các đoàn khảo sát 10 năm thực hiện Chỉ thị 45-CT/TW . Xin ông cho biết tham gia đoàn có đại diện của các cơ quan nào? Những tỉnh, thành nào được lựa chọn để khảo sát?
GS.TSKH Nguyễn Hữu Tăng:Ban chỉ đạo tổng kết Chỉ thị 45 gồm có đại diện lãnh đạo của nhiều ban, ngành do ông Tô Huy Rứa, Bí thư TW, Trưởng ban Khoa giáo TW, làm Trưởng ban chỉ đạo, ông Nguyễn Bắc Son, Phó trưởng Ban Khoa giáo TW, tôi và ông Phạm Mạnh Hùng – chuyên gia cao cấp của Ban Tuyên giáo TW, làm Phó trưởng ban chỉ đạo. Trong Ban chỉ đạo còn có đại diện của Ban Dân vận TW, Văn phòng TW Đảng, Văn phòng Chính phủ, Bộ Nội vụ, Bộ Khoa học và Công nghệ. Một số ban bộ ngành khác có tham gia uỷ viên Ban chỉ đạo.
Kỳ vừa rồi đoàn có đi khảo sát 12 tỉnh, thành trong 54 tỉnh, thành có Liên hiệp hội. Mỗi miền là 4 tỉnh/thành; ở miền Bắc có Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Lạng Sơn; ở miền Trung có Hà Tĩnh, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Đắc Lắc; ở miền Nam có TP Hồ Chí Minh, TP Cần Thơ, tỉnh Kiên Giang và Cà Mau.
Ngoài việc lựa chọn đồng đều mỗi miền 4 tỉnh, đoàn đã chọn lựa một số tỉnh, thành có Liên hiệp hội hoạt động tốt để rút kinh nghiệm; có tỉnh, thành Liên hiệp hội hoạt động còn khó khăn; có tỉnh, thành mới thành lập Liên hiệp hội như Lạng Sơn để tìm ra nguyên nhân sao mãi mới thành lập Liên hiệp hội, và trong quá trình hoạt động Liên hiệp hội đang hoạt động gặp những khó khăn gì.
- Chỉ thị 45-CT/TW đã nêu rõ: “Liên hiệp hội là một tổ chức chính trị - xã hội của trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam, cùng với các đoàn thể chính trị - xã hội khác tạo thành lực lượng nòng cốt trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Liên hiệp hội gồm các hội khoa học và kỹ thuật ngành và các Liên hiệp hội khoa học và kỹ thuật địa phương tự nguyện gia nhập Liên hiệp hội ”. Qua đợt khảo sát ở các tỉnh, thành phố, ông có nhận định ban đầu thế nào về việc quán triệt nội dung này ở các cấp ủy đảng, chính quyền các địa phương?
GS.TSKH Nguyễn Hữu Tăng:Nhận thức về tính chính trị - xã hội của Liên hiệp hội rất khác nhau giữa các tỉnh/thành. Nói chung những tỉnh mà Liên hiệp hội hoạt động tốt thì ở đấy là cấp uỷ cũng như lãnh đạo tỉnh nhận thức tốt vai trò, vị trí của Liên hiệp hội, còn ở những tỉnh Liên hiệp hội đang khó khăn có nhận thức chưa đúng đắn lắm về vai trò, vị trí của Liên hiệp hội mà chủ yếu là do Nghị định 88 (Nghị định 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội - BBT), trong đó (trừ mấy đoàn thể chính trị) các hội, kể cả Liên hiệp hội Việt Nam bị chi phối . Bị chi phối là phải tự chủ tự trang trải về kinh phí, thế nên ở nhiều tỉnh, thành người ta hỗ trợ Liên hiệp hội ít, hoặc theo tinh thần Nghị định 88 là không cấp kinh phí. Có những nơi hiện nay, Liên hiệp hội chỉ được 1, 2 biên chế nên rất khó hoạt động.
- Nghĩa là Nghị định 88 dù ra đời sau nhưng không nhất quán với quan điểm chỉ đạo của Chỉ thị 45. Và nếu tỉnh nào áp dụng Chỉ thị 45 thì hỗ trợ Liên hiệp hội hoạt động, còn nếu chỉ theo Nghị định 88 thì không hỗ trợ hoặc hỗ trợ rất ít?
GS.TSKH Nguyễn Hữu Tăng:Đúng vậy, nếu thấm nhuần tốt tinh thần của Chỉ thị 45 thì có thể vượt qua được rào cản của Nghị định 88 vì Liên hiệp hội cũng phải chịu trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình. Ở những nơi có sự thống nhất giữa cấp uỷ đảng và UBND trong chỉ đạo hoạt động Liên hiệp hội, theo đó nhận thức đây là tổ chức chính trị- xã hội, thì nơi đó hỗ trợ, tạo điều kiện cho Liên hiệp hội hoạt động, kể cả về biên chế, về phương tiện, về trụ sở, điều kiện làm việc.
Cần chú ý rằng ngay sau khi Nghị định 88 được ban hành thì Bộ Nội vụ ra Công văn 1980 (Công văn số 1980/BNV-TCPCP ngày 25/8/2003 về tạo cơ chế, chính sách để Liên hiệp hội Trung ương và Liên hiệp hội tỉnh hoạt động có hiệu quả - BBT); nói một cách đại thể là hướng dẫn về biên chế, phụ cấp lãnh đạo của Liên hiệp hội từ TW đến địa phương ( Liên hiệp hội tỉnh có cán bộ chuyên trách làm công tác thường trực, số lượng cán bộ ở từng tỉnh do Chủ tịch UBND tỉnh căn cứ vào nhu cầu, hiệu quả hoạt động của Liên hiệp hội để hỗ trợ, trong tổng số biên chế đã được giao). Mặc dù tính chất pháp lý của Công văn thấp hơn so với Nghị định, nhưng nơi nào các ban, ngành (Sở Nội vụ) tham mưu tốt cho lãnh đạo tỉnh thì nơi đó tạo điều kiện cho Liên hiệp hội hoạt động. Còn những nơi cơ quan tham mưu yếu thì không để ý đến công văn đó, nên họ không biết cách vượt qua; lãnh đạo tỉnh lúng túng không biết vận dụng thế nào. Do đó, qua khảo sát, các tỉnh, thành đều đề nghị sửa Nghị định 88 để tạo điều kiện cho hệ thống Liên hiệp hội hoạt động được tốt.
- Theo như ông nói, thì rõ ràng các văn bản chỉ đạo hoạt động của Liên hiệp hội còn có “độ vênh” nhất định, thiếu thống nhất khiến cho các địa phương lúng túng trong chỉ đạo, hoạt động. Tuy nhiên vẫn có địa phương linh hoạt áp dụng và tạo điều kiện tốt cho Liên hiệp hội hoạt động. Đề nghị ông cho biết một vài địa phương làm tốt công tác này.
![]() |
Đoàn khảo sát làm việc với tỉnh Đắc Lắc. Ảnh: Đoàn Văn Thanh |
GS.TSKH Nguyễn Hữu Tăng:
Qua khảo sát, chúng tôi thấy Liên hiệp hội TP Hồ Chí Minh được hỗ trợ rất tốt. Về biên chế, lãnh đạo của thành phố cho Liên hiệp hội 17 biên chế, cộng thêm hợp đồng khoảng một chục hợp đồng. Vềtrụ sở, thành phố đang chuẩn bị xây cho Liên hiệp hội một khu nhà hơn 10 tầng. Ngân sách, thí dụ dành cho việc tư vấn, phản biện và giám định xã hội, một nhiệm vụ quan trọng của Liên hiệp hội thìthành phố dành ra 3 tỷ đồng để Liên hiệp hội chủ động thực hiện. Nếu năm nay tiêu hết một tỷ rưỡi thì thành phố bù đắp 1,5 tỷ, tiêu hết 2 tỷ thì thành phố bù đắp 2 tỷ. Liên hiệp hội TP Hồ Chí Minhcho biết là chưa năm nào tiêu hết 3 tỷ. Theo tôi, cách làm của TP Hồ Chí Minh rất phù hợp, bởi vì nếu ta làm phản biện theo đơn đặt hàng thì chẳng ai muốn đến, vì cơ quan làm ra đề án mà lại có nhữngngười phê phán thì lần sau họ không mời nữa. Với ngân sách thành phố cấp, Liên hiệp hội được chủ động thực hiện nhiệm vụ của mình. Chẳng hạn, tôi thấy dự án có vấn đề, anh không mời tôi cũng tham giaphản biện để giúp cho lãnh đạo biết chọn lựa, quyết định.Hay như tại Hà Tĩnh, đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ đánh giá rất cao hoạt động của Liên hiệp hội Hà Tĩnh. Liên hiệp hội Hà Tĩnh phát triển tổ chức đến cấp huyện, là một trong những ngọn cờ thi đua của tỉnh. Theo báo cáo tổng kinh phí hoạt động của Liên hiệp hội và các hội thành viên trong 10 năm qua, ngoài tiền hỗ trợ của chính quyền, trung bình một năm hệ thống Liên hiệp hội Hà Tĩnh có 10 tỷ để hoạt động, trong đó có cả dự án nước ngoài, trong nước và dự án của tỉnh.
Liên hiệp hội Đắc Lắc cũng hoạt động tốt. Liên hiệp hội Đắc Lắc mới có một dự án về nông nghiệp hữu cơ (nông nghiệp sạch) trị giá 1,5 triệu đô la, chủ yếu giúp cho con em ở Đắc Lắc tập huấn về nông nghiệp hữu cơ ở bên Nhật, giúp cho có công ăn việc làm. Dự án tới đây sẽ tiếp tục một vài triệu đô nữa. Qua khảo sát, đoàn có góp ý Liên hiệp hội Đắc Lắc nên trao đổi với đối tác Nhật để họ hỗ trợ kinh phí cho Liên hiệp hội hoạt động.
Liên hiệp hội Hải Dương, chúng tôi không đi khảo sát cụ thể nhưng biết rằng trước đây ngân sách hàng năm chỉ có vài trăm triệu nhưng bây giờ có khoảng hơn tỷ, vì trong quá trình hoạt động, Liên hiệp hội cũng nhận thức ra một điều là phải kết hợp chặt chẽ với các ban, ngành, các sở để đăng ký thực hiện các đề tài, dự án. Sở, ban, ngành có liên quan trong quá trình theo dõi đánh giá cao hoạt động của Liên hiệp hội nên ủng hộ tăng kinh phí tạo điều kiện cho Liên hiệp hội hoạt động.
Nói một cách khái quát, những nơi Liên hiệp hội hoạt động tốt là do cấp uỷ đảng, UBND quan tâm khá lớn, có nơi quan tâm đến từng chi tiết, như về lãnh đạo chủ chốt của Liên hiệp hội. Còn những nơi có chỉ đạo của cấp uỷ nhưng UBND chưa quan tâm hoặc quan tâm chưa đủ thì Liên hiệp hội hoạt động khó khăn. Ví dụ ở Hà Nội, Thành uỷ chỉ đạo rất tốt nhưng chính quyền thì thiếu cơ chế cần thiết cho Liên hiệp hội Hà Nội hoạt động tốt.
Không chỉ lãnh đạo tỉnh, thành lúng túng trong chỉ đạo mà ngay cả lãnh đạo của nhiều Liên hiệp hội cũng lúng túng về phương thức hoạt động, cứ đợi chờ chính quyền giao nhiệm vụ mới làm phản biện, còn tính chủ động không có.
- Quay trở lại tính chất chính trị-xã hội của Liên hiệp hội, qua khảo sát ông nhận thấy các tỉnh, thành đã hiểu vấn đề này một cách sâu sắc hay chưa?
GS.TSKH Nguyễn Hữu Tăng:Tính chất chính trị - xã hội có khi chưa được nhận thức sâu sắc. Tính chất chính trị - xã hội của Liên hiệp hội thể hiện ở chỗ Liên hiệp hội hoạt động để thực hiện các chủ trương, đường lối chính sách của đảng trong đội ngũ trí thức. Chỉ thị 45 nêu lên các nơi phải làm công tác tư tưởng trong đội ngũ trí thức ( Cần tăng cường công tác chính trị tư tưởng, nâng cao lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tinh thần cộng đồng, tính trung thực trong khoa học và đạo đức nghề nghiệp trong giới trí thức– trích Chỉ thị 45). Đảng, Nhà nước thông qua Liên hiệp hội truyền đạt các nghị quyết, chỉ thị nhưng việc truyền đạt qua các hội nghị hiện nay còn hơi đơn điệu. Theo tôi, sắp tới cần tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ, toạ đàm để có thể trao đổi những vấn đề mà trí thức đang còn nhận thức khác nhau về đường lối, chính sách của đảng, hay trao đổi tình hình nhận thức trong xã hội để có sự thống nhất.
Ngay trong Liên hiệp hội cũng có cách hiểu khác nhau về tính chất chính trị-xã hội. Có người bảo Liên hiệp hội cũng như hội đều phải tự trang trải kinh phí, chứ sao Liên hiệp hội được hỗ trợ mà hội thì không, hội cũng làm nhiệm vụ chính trị đấy chứ. Nói cho cùng thì hội nào cũng làm nhiệm vụ chính trị, nhưng Liên hiệp hội là một tổ chức chịu sự chỉ đạo trực tiếp của cấp uỷ đảng, thực hiện các nhiệm vụ đã nêu trong Chỉ thị 45; không tổ chức nào đại diện tiếng nói chính trị của đội ngũ trí thức bằng Liên hiệp hội được. Liên hiệp hội hoạt động chính trị thì nhà nước. Liên hiệp hội không nên đòi hỏi bao cấp, nhưng Nhà nước tạo điều kiện cho Liên hiệp hội hoạt động tốt, khi có điều kiện rồi thì tự vận động tìm ra kinh phí .
- Chỉ thị 45 đã đề cập đến vai trò lãnh đạo của Đảng đoàn ở các liên hiệp hội nhưng chỉ một vài năm gần đây các đảng đoàn ở một số Liên hiệp hội mới được thành lập. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến sự chậm trễ này?
GS.TSKH Nguyễn Hữu Tăng:Sau khi Chỉ thị 45 ra đời năm 1998, các nơi đều thành lập đảng đoàn. Tuy nhiên, vào thời kỳ đó, ngoài Liên hiệp hội thì các sở ở các địa phương đều có các ban cán sự đảng nên có sự chồng chéo về lãnh đạo giữa đảng đoàn, ban cán sự với đảng uỷ cơ quan. Do đó, Ban bí thư TW Đảng khoá 9 mới quyết định giải tán Đảng đoàn ở các liên hiệp hội địa phương.
Sau khi đi khảo sát để chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ 10, người ta mới thấy các tổ chức chính trị - xã hội như là Liên hiệp hội Việt Nam, Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam thì nên có đảng đoàn, bởi vì đảng đoàn đó là một cơ quan giúp việc cho cấp uỷ để thực hiện các đường lối chủ trương, chính sách của đảng trong tổ chức đó, còn tỉnh, thành uỷ thì không thể quán xuyến hết được. Cho nên đến Hội nghị TW 4 (khoá 10) đã ra nghị quyết nêu rõ phải thành lập lại đảng đoàn ở Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật tỉnh và Liên hiệp văn học nghệ thuật tỉnh. Hiện nay, trong 54 tỉnh, thành có Liên hiệp hội có gần 40 tỉnh, thành đã có đảng đoàn, một số nơi chưa có do chờ Đại hội Liên hiệp hội, cán bộ chưa ổn định..., nhưng tới đây các liên hiệp hội còn lại sẽ thành lập đảng đoàn.
- Chỉ thị 45 đã nêu Liên hiệp hội thực hiện các hoạt động"phổ biến kiến thức khoa học, công nghệ, thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 về giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ; tư vấn, phản biện và giám định xã hội trong hoạt động khoa học, công nghệ ". Theo báo cáo hàng năm của các liên hiệp hội thì các tổ chức này đã đạt được những kết quả nhất định trong các hoạt động nhưng hình như các liên hiệp hội vẫn chưa khai thác hết được các cơ hội để phát triển. Vậy ngoài những rào cản về cơ chế đã nêu trên, theo ông đâu là khó khăn nội tại của các liên hiệp hội?
GS.TSKH Nguyễn Hữu Tăng:Khó khăn của các liên hiệp hội thì rất nhiều. Ngoài sự eo hẹp về kinh phí hoạt động, cơ sở vật chất, phương tiện, các liên hiệp hội thiếu nhân lực và nhất là phương thức hoạt động sao cho phù hợp với điều kiện. Chẳng hạn như nghiên cứu khoa học, các nơi có rất nhiều cán bộ có kinh nghiệm trong nghiên cứu, và quản lý, nhưng lại thiếu phương tiện. Liên hiệp hội Việt Nam đã nghèo thì Liên hiệp hội địa phương càng nghèo nữa. Chúng ta cũng chưa xây dựng được các ê kíp, tập thể khoa học để thực hiện nghiên cứu, mà mới chỉ phát huy tinh thần tự nguyện của các nhà khoa học. Việc chọn đề tài, hướng nghiên cứu rất quan trọng, phải ứng dụng được vào thực tiễn để có nguồn tài trợ thực hiện.
Một nhiệm vụ rất quan trọng của Liên hiệp hội là tư vấn, phản biện và giám định xã hội nhưng muốn làm được phải có một đội ngũ chuyên gia. Ở các tỉnh, thành, Liên hiệp hội đang thiếu đội ngũ chuyên gia; các chuyên gia giỏi tập trung ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh hay một số đô thị khác; còn có các tỉnh, thành khác thì thiếu chuyên gia. Ngay ở cơ quan công quyền cũng đã thiếu cán bộ đầu ngành. Muốn làm tư vấn, phản biện và giám định xã hội, phải có chuyên gia có uy tín. Sắo tới, theo tôi, Liên hiệp hội Việt Nam cần hỗ trợ Liên hiệp hội các tỉnh, thành về chuyên gia, về phương pháp thực hiện nhiệm vụ.
- Qua khảo sát, chúng ta rút ra những kinh nghiệm gì?
![]() |
Quang cảnh buổi làm việc giữa Thường trực Tỉnh ủy Hà Tĩnh và đoàn công tác liên ngành về tổng kết Chỉ thị 45-CT/TW. Ảnh: Thái Sơn |
GS.TSKH Nguyễn Hữu Tăng:
Cái thứ nhất là phải nâng cao nhận thức của lãnh đạo cấp uỷ đảng, chính quyền, những người chủ chốt ở địa phương về vị trí, vai trò, chức năng của Liên hiệp hội. Những nơi thông về nhận thức thìhọ thấy được tầm quan trọng của Liên hiệp hội, từ đó có nhiều cách thức để hỗ trợ cho Liên hiệp hội hoạt động tốt.Liên hiệp hội muốn hoạt động tốt cần có một đội ngũ cán bộ tối thiểu, không có người không làm được. Ví dụ như ở Phú Thọ, lãnh đạo tỉnh đã đồng ý cho Liên hiệp hội 15 biên chế, trước đó Liên hiệp hội chỉ có 1 biên chế.
Theo sự chỉ đạo của đồng chí Trương Tấn Sang, tới đây, Bộ Nội vụ sẽ nghiên cứu cấp biên chế bổ sung cho Liên hiệp hội Việt Nam và biên chế cho các liên hiệp hội tỉnh, thành để hoàn thành tốt nhiệm vụ trong tình hình mới, trong đó quy định tối thiểu là bao nhiêu, còn tối đa thì tuỳ từng địa phương. Hiện nay, nhiều lãnh đạo chủ chốt không có lương mà người ta làm vì nhiệt huyết với công tác hội, như GS Nguyễn Năng An, Chủ tịch Liên hiệp hội Hà Nội, không được đồng phụ cấp nào.
Những người ở hội phải có tâm huyết, năng lực. Năng lực thể hiện ở chỗ anh phải nhanh nhạy, nhạy cảm với vấn đề, biết phát hiện vấn đề mà Liên hiệp hội có thể làm được và điều quan trọng là phải có khả năng tổ chức. Nếu chỉ có một vài người thì không làm được trong khi phạm vi hoạt động của Liên hiệp hội rất rộng, từ tập hợp đoàn kết đội ngũ trí thức đến tư vấn, phản biện, từ những vấn đề phổ biến kiến thức, xã hội hoá, đến làm cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và quan hệ với Mặt trận Tổ quốc…
Sắp tới cũng cần có tiêu chí nhất định để chọn được người lãnh đạo Liên hiệp hội bởi vì hoạt động hội là hoạt động rất mới mẻ ở nước ta. Và do đây là một hoạt động mới, chưa có kinh nghiệm, cho nên vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Khác với các tổ chức chính trị-xã hội khác, người lãnh đạo Liên hiệp hội phải biết vận động người khác cùng thực hiện với mình. Đó phải là một nhà trí thức có khả năng quy tụ, có uy tín khoa học và uy tín chính trị. Sức mạnh của Liên hiệp hội là sức mạnh trí tuệ và sức mạnh tập thể, chứ một ông chủ tịch hay một ông phó chủ tịch không làm được. Nếu ở các cơ quan công quyền, anh dùng bộ máy hành pháp để thực hiện nhiệm vụ thì ở đây không như thế, tôi không thích thì không làm cho anh.
- Với những rào cản, khó khăn gặp phải, các kiến nghị của địa phương chủ yếu tập trung vào những vấn đề nào?
GS.TSKH Nguyễn Hữu Tăng:Thứ nhất, họ đề nghị Trung ương phải khẳng định tính chất chính trị - xã hội của hệ thống Liên hiệp hội Việt Nam từ trung ương đến địa phương. Thứ hai là phải sửa Nghị định 88, nhiều nơi đề nghị Nghị định này không chi phối tổ chức chính trị - xã hội, hoặc là phải xây dựng Nghị định khác. Thứ ba, đề nghị Bộ Chính trị có một nghị quyết riêng để chỉ đạo sự phát triển của Liên hiệp hội trong tình hình mới.
Theo tôi, Liên hiệp hội là tổ chức chính trị - xã hội thì phải có tính hệ thống. Liên hiệp hội địa phương là tiếng nói chính trị cho đội ngũ trí thức địa phương, Liên hiệp hội Trung ương là tiếng nói chính trị của đội ngũ trí thức toàn quốc. Để đảm bảo tính hệ thống của Liên hiệp hội thì phải có các quy định. Chẳng hạn như hiện nay mỗi Liên hiệp hội có điều lệ riêng, tự nguyện gia nhập Liên hiệp hội Việt Nam cho nên họp Hội đồng TW chỉ là mang tính định hướng cho họ hoạt động thôi chứ không phải tính chỉ đạo. Để có tính hệ thống thì Liên hiệp hội Việt Nam chỉ có một điều lệ như đoàn thể chính trị khác; Liên hiệp hội địa phương thì có quy chế để thực hiện điều lệ của Liên hiệp hội Việt Nam. Cho nên các đại hội không cần thông qua điều lệ của Liên hiệp hội địa phương nữa mà là quy chế để thực hiện. Có thể ví hệ thống tổ chức chính trị - xã hội của Liên hiệp hội Việt Nam như xương sống, còn các hội xã hội - nghề nghiệp như xương sườn, là một cành rất nhiều hoa đẹp. Như thế tính độc lập của hội ngành Trung ương rất cao mà vẫn đảm bảo được tính liên kết, phối hợp. Ở địa phương cũng vậy, Liên hiệp hội là tổ chức chính trị - xã hội, tập hợp xung quanh là các hội xã hội - nghề nghiệp. Chúng ta giống như mặt trận trí thức.
- Sau các tỉnh, thành, sắp tới Ban chỉ đạo sẽ tiếp tục khảo sát các cơ quan, tổ chức nào?
GS.TSKH Nguyễn Hữu Tăng:Sắp tới sẽ có các đoàn khảo sát ở các hội, đơn vị 81, dự kiến chọn 2 tổng hội, 2 hội và 2 đơn vị 81. Ban Chỉ đạo sẽ đến khảo sát hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam , một số bộ như Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nội vụ... Việc khảo sát sẽ kết thúc trong năm nay.
- Dự kiến khi nào sẽ có báo cáo tổng kết Chỉ thị? Việc tổng kết này có ý nghĩa thế nào đến sự phát triển của Liên hiệp hội Việt Nam ?
GS.TSKH Nguyễn Hữu Tăng:Liên hiệp hội Việt Nam sẽ có báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 45. Ban chỉ đạo của TW cũng có báo cáo của Ban chỉ đạo, trong đó có cả đánh giá việc thực hiện Chỉ thị 45 ở các cấp uỷ, chính quyền, còn Liên hiệp hội chỉ báo cáo việc thực hiện Chỉ thị 45 của Liên hiệp hội thôi. Báo cáo của Liên hiệp hội sẽ trở thành phần quan trọng trong văn bản báo cáo tổng kết Chỉ thị 45. Sau khi chuẩn bị xong dự thảo báo cáo thì trình Ban Bí thư. Ban Bí thư dự kiến sẽ tổ chức một hội nghị để tổng kết việc thực hiện Chỉ thị này. Sau Hội nghị, Ban Bí thư sẽ có ý kiến chỉ đạo hoàn chỉnh báo cáo và trình với Bộ chính trị. Bộ Chính trị sẽ có quyết định mới về hoạt động Liên hiệp hội Việt Nam . Văn bản này có ý nghĩa rất quan trọng trong chỉ đạo Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên hoạt động trong tình hình mới sau khi có Nghị quyết 27-NQ/TW về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Và đây là cơ sở cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Liên hiệp hội Việt Nam dự kiến sẽ diễn ra vào cuối năm 2009.
- Xin cảm ơn ông dành thời gian trả lời phỏng vấn. Chúc Ban chỉ đạo tổng kết Chỉ thị 45 hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
10 năm thực hiện Chỉ thị 45: Ý kiến từ các địa phương "Từ khi Chỉ thị 45-CT/TW của Bộ Chính trị được ban hành, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Hà Tĩnh đã tổ chức học tập quán triệt Chỉ thị này (và sau này là Thông báo kết luận 145-TB/TW của Ban Bí thư) một cách nghiêm túc, kịp thời từ tỉnh đến cơ sở, đặc biệt là tại các cơ sở đảng có số lượng trí thức lớn. Thường trực Tỉnh uỷ đã ban hành các văn bản quan trọng để tạo điều kiện cho Liên hiệp hội hoạt động tốt như Chỉ thị 20-CT/TU về tiếp tục đẩy mạnh nâng cao hoạt động của Liên hiệp hội, Thông báo 45-TB/TU, Thông báo 158-TB/TU về định hướng hoạt động của Liên hiệp hội và đội ngũ trí thức Hà Tĩnh thời kỳ 2001 - 2005, các giải pháp tăng cường lãnh đạo chỉ đạo hoạt động của Liên hiệp hội. UBND tỉnh cũng đã có nhiều văn bản quan trọng tạo hành lang pháp lý cho Liên hiệp hội hoạt động như: giao cho Liên hiệp hội thực hiện các nhiệm vụ như tư vấn phản biện, giám định xã hội ( Quyết định 2456-QĐ/UB); chính sách khuyến khích đào tạo, bồi dưỡng nhân tài ( Quyết định 822/2002-QĐ-UB). Ngoài ra, nhiều văn bản của Hội đồng nhân dân, Ban tuyên giáo Tỉnh uỷ, các cấp, các ngành đã tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ trí thức học tập, bồi dưỡng, nâng cao trình độ để cống hiến, sáng tạo, phục vụ quê hương". (Theo ông Thái Sơn, Liên hiệp hội Hà Tĩnh ) "Liên hiệp hội Việt Nam chưa hình dung đầy đủ khó khăn của Liên hiệp hội địa phương nên chưa quan hệ chặt chẽ với lãnh đạo các tỉnh để giúp Liên hiệp hội địa phương tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. Liên hiệp hội Việt Nam chưa phát huy hết vị trí, chức năng của Đảng đoàn để có tác động mạnh với Đảng và Chính phủ làm rõ vị trí, vai trò của Liên hiệp hội, xác lập đúng vai trò Liên hiệp hội xuyên suốt từ Trung ương đến các địa phương là một tổ chức chính trị-xã hội; chưa tạo được mối liên kết các liên hiệp hội địa phương để tạo thành sức mạnh của cả tổ chức trong những vấn đề quan trọng của đất nước, từ đó để nâng cao vị thế của Liên hiệp hội Việt Nam". (Theo ông Nguyễn Quang Thiện, Liên hiệp hội Quảng Ngãi ) "...Nhà nước cần ban hành các chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho các Liên hiệp hội địa phương, trong đó có phần sửa đổi (hoặc thay thế) Nghị định 88/2003, đưa liên hiệp hội địa phương ra khỏi phạm vi điều chỉnh của Nghị định này (tức không phải là một hội xã hội - nghề nghiệp). UBND các tỉnh/thành cần giao kế hoạch hoạt động hàng năm cho các Liên hiệp hội địa phương; giao cho các Liên hiệp hội địa phương xây dựng kế hoạch hoạt động và Nhà nước cấp kinh phí cho các hoạt động này; bổ sung biên chế, kinh phí hoạt động và cơ sở vật chất đủ lớn để các liên hiệp hội địa phương hoạt động; đổi mới các hình thức tôn vinh trí thức và có các chính sách để trí thức có điều kiện và an tâm “sống hết mình” vì khoa học". (Theo ông Đoàn Văn Thanh, Liên hiệp hội Đắc Lắc ) "Để thực hiện tốt nhiệm vụ tư vấn, phản biện và giám định xã hội mà Chính phủ giao cho Liên hiệp hội, đề nghị Chính phủ chỉ đạo cho bổ sung, điều chỉnh thay thế Quyết định 22/2002/QĐ-TTg, trong đó quy định rõ danh mục những loại đề án nào bắt buộc phải thực hiện tư vấn, phản biện và giám định xã hội cũng như các tiêu chí đánh giá, cơ chế và nguồn kinh phí thực hiện tư vấn, phản biện và giám định xã hội. Cần nghiên cứu có cơ chế riêng để hỗ trợ cơ sở vật chất, phương tiện làm việc và kinh phí cho hoạt động của các tổ chức thuộc Liên hiệp hội ở tỉnh miền núi, vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn". (Theo ôngPhạm Văn Rỡ, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Liên hiệp hội Yên Bái ) |










