Nhà Bác ở, vẻn vẹn chỉ có 6 mét vuông, tầng trệt kê một cái bàn mộc và một ghế tựa đóng lấy. Chung quanh che phên nứa nong đôi, vài quyển sổ treo ở vách, ống bút bằng khẩu nứa để bàn. Chiếc máy chữ Hermès nhỏ, Bác mang từ Côn Minh về Hà Nội, bây giờ theo Bác đi kháng chiến, nó giúp Bác đánh các chỉ thị của Đảng, của Chính phủ và thư khen người tốt việc tốt… Tầng trên để ngủ, có chiếc chiếu đậu, một cái màn, một chăn đơn, một gối mỏng, một lọ cồn 90° để bôi vào chỗ muỗi đốt, một gói thuốc lá, một bao diêm. Mùa đông ở rừng Việt Bắc ẩm ướt rét buốt, anh Vũ Đình Huỳnh chuẩn bị cho Bác một chăn bông mỏng, Bác không dùng và nói: “Đồng bào còn nghèo, phải đắp chăn xui vỏ cây, Bác đắp chăn đơn đủ rồi”.
Có một đêm vào lúc 2 giờ sáng, anh Vũ Đình Huỳnh thức giấc, thấy ngoài vườn có thú phá rau, anh bắn một phát súng, xong ngủ tiếp.
Không ngờ bên kia suối Bác cũng nghe có súng nổ. Sáng dậy tập thể dục xong, Bác lội suối sang hỏi anh Huỳnh: - Hôm qua, có tiếng súng ở đâu đấy, anh Huỳnh.
- Thưa Bác, cháu tưởng hổ vào phá vườn nên cháu bắn, trúng vào chân con trâu, còn nằm ở góc vườn.
- Chú nhìn chồn hoá cáo. Bắn nhầm trâu của dân là một khuyết điểm. Bác nói - Chắc trâu của xóm Lập Binh. Chú cầm 200đ và dắt trâu ra làng nói: Bác Hồ xin lỗi cụ Mài.
Anh Huỳnh đi nói mãi, cụ Mài không nhận và nói:
- Chúng tôi không có gì tặng Bác Hồ, Bác Hồ còn đền tiền, anh về nói với Bác Hồ, chúng tôi xin cảm ơn Bác.
- Nói mãi cụ mới nhận, sau mổ con trâu và biếu cơ quan một đùi.
Buổi tối cơ quan họp chung quanh bếp lửa kiểm điểm anh Huỳnh. Anh Huỳnh thấy đối với dân như vậy là sai.
Bác nói: “Súng đạn lúc này để bắn kẻ thù”. Mọi người rất thấm thía lời Bác dạy.
Buổi họp ngồi chung quanh bếp lửa, ăn sắn nướng thật ngon. Bác cũng cùng anh em ăn sắn nướng.
Đã gần 9 giờ tối, anh Huỳnh đề nghị Bác đi nghỉ, chúng tôi lại trở về vườn rau bên thác Dâng nghe suối reo vui.
Nguồn: Xưa và Nay, số 91, tháng 1/2001, tr 6