Nguy cơ khủng hoảng lương thực toàn cầu: nguyên nhân và giải pháp khắc phục
1. Nguy cơ khủng hoảng lương thực
Trong khoảng một năm qua, giá các loại lương thực, trước hết là gạo, loại lương thực thiết yếu đối với hơn 50% dân số toàn cầu, trên thị trường thế giới đã liên tục leo lên những nấc thang mới, gây ra tâm lý hoang mang và những rối loạn xã hội sâu sắc ở nhiều nước, nhất là ở các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh.
Theo Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc (FAO), năm 2007, giá lúa mì đã tăng 130%, gạo tăng 74%, đậu tương tăng 87% và ngô tăng 53%, mức tăng giá mạnh nhất trong nhiều năm. Tuy nhiên, không dừng ở đó, ngay từ đầu năm 2008, giá các mặt hàng này càng tăng mạnh. Theo ông Pincus, nhà kinh tế hàng đầu của Liên hợp quốc (LHQ) tại Việt Nam, kể từ đầu năm 2008, giá gạo trên thị trường châu Á đã tăng gấp 3 lần, và ở một vài nước, giá còn tăng gấp 10 lần so với năm 2007. Theo thống kê của FAO, trong 6 tháng tính đến giữa tháng 4/2008, giá lúa mì và ngô đã tăng trên 50%, còn giá gạo cứ mỗi ngày lại lập một kỷ lục mới. Còn theo một nguồn tin khác, trong 6 tháng gần đây, tính đến đầu tháng 4/2008, giá lúa mì đã tăng 120%, đậu tương tăng 70% và ngô tăng 60%. Thống kê của FAO cũng cho thấy, chỉ số giá lúa mì đầu năm 2008 đã lên tới 475 điểm, tăng gấp 3 lần so với năm 2002. Chỉ tính riêng từ giữa năm 2007 đến nay, giá lúa mì đã tăng 100%. Tính chung chỉ số giá ngũ cốc (gồm gạo, ngô, lúa mì...) đã tăng ít nhất 75% trong khoảng một năm trở lại đây. Chỉ số giá dầu ăn và mỡ cũng tăng với mức tương tự. Theo AP, giá thực phẩm đã tăng 40% trên toàn cầu kể từ giữa năm 2007. Trước tình trạng đó, tại cuộc họp chung mùa Xuân giữa Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) vừa qua tại Mỹ, người ta đã tập trung thảo luận về cơn sốt giá lương thực và đã lên tiếng cảnh báo về những hậu quả nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng mới này. Theo FAO, đã có 36 nước ở châu Phi, châu Á, và Mỹ Latinh đang phải đối mặt với tình trạng thiếu lương thực.
Trong cuộc khủng hoảng lương thực này, những nước nghèo, đặc biệt là ở châu Á và châu Phi, rất dễ bị tổn thương trước vấn đề tăng giá lương thực, và có nguy cơ bị khó khăn và thiệt hại nhiều nhất, vì thu nhập của họ rất thấp và ở nhiều nước, người dân phải chi phần lớn ngân sách ít ỏi của mình cho nhu cầu lương thực và thực phẩm. Chẳng hạn, chi cho lương thực chiếm tới 30% tổng mức chi tiêu ở Trung Quốc, 40% ở Việt Nam và 50% ở Ấn Độ. Ở Philipin và Bănglađet, tình trạng này còn tồi tệ hơn, do người dân phải dành tới 70% thu nhập của mình để mua lương thực. Hay theo một thống kê khác, chỉ trong vòng một năm, chi phí cho một bữa ăn của một gia đình ở châu Á và châu Phi đã tăng 40%. Trong khi ở các nước phát triển, nhu cầu lương thực chỉ chiếm 10-20% chi tiêu của các hộ gia đình, thì ở các nước nghèo, người dân phải dành tới 90% thu nhập cho các bữa ăn đạm bạc của mình.
Tổng thư ký LHQ, ông Ban Ki Moon cảnh báo "cơn bão giá" lương thực thực phẩm có nguy cơ "thủ tiêu" những thành quả trong cuộc chiến chống đói nghèo, khiến mục tiêu xóa nghèo (giảm một nửa số người nghèo) do LHQ đặt ra vào năm 2015 bị chậm mất 7 năm. Theo ông, "Nếu không được xử lý đúng đắn, cuộc khủng hoảng này có thể dẫn tới hàng loạt cuộc khủng hoảng khác.... và trở thành một vấn đề đa chiều ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội, thậm chí cả an ninh chính trị toàn thế giới...". Ông Dominique Strauss-Kahn, tổng giám đốc IMF, cũng cảnh báo rằng, tác động lạm phát của giá thực phẩm gia tăng có thể khiến cho hàng triệu người rơi trở lại tình trạng đói nghèo. Theo ông: "Tất cả những thành quả đạt được trong thập niên vừa qua có thể bị phá hủy một cách nhanh chóng bởi cuộc khủng hoảng phát sinh từ tình trạng giá cả thực phẩm leo thang".
Chủ tịch WB, ông Robert Zoellick, dự báo giá thực phẩm tăng cao sẽ đẩy ít nhất 100 triệu người tại các nước có thu nhập thấp rơi vào cảnh đói nghèo. LHQ cũng chia sẻ quan điểm đó, khi cho rằng, khủng hoảng lương thực toàn cầu là một "cơn sóng thần thầm lặng" đẩy thêm 100 triệu người đối diện với sự nghèo khó.
Khác hẳn so với các cuộc khủng hoảng lương thực trước đây, chỉ xảy ra cục bộ và tác động đến một bộ phận nhỏ dân cư nghèo cuộc khủng hoảng này đang tác động đến cả những người không thường xuyên bị nạn đói đe dọa. Ông Josette Sheeran, giám đốc của Tổ chức Chương trình lương thực thế giới (WFP), cho rằng: "đối với tầng lớp trung lưu có nghĩa là phải giảm bớt chi phí chăm sóc y tế. Đối với người có thu nhập 2 USD/ngày, nghĩa là phải giảm bớt thịt và cho con cái họ nghỉ học. Đối với những người thu nhập 1 USD/ngày, nghĩa là phải giảm bớt thịt và rau và chỉ ăn ngũ cốc. Và đối với những người chỉ có thu nhập 50 xu/ngày, thì có nghĩa rằng đây là một thảm họa khủng khiếp". Các thống kê cho thấy, hiện nay, khoảng trên 1 tỉ người sống với mức 1 USD/ngày và 1,5 tỉ người sống với 2 USD/ngày.
Theo tính toán của WFP, hiện có khoảng 77 triệu người trên thế giới đang đối mặt với nguy cơ thiếu ăn bởi giá lúa mỳ và gạo tăng cao. Một cuộc nghiên cứu của WB cho biết, khi thực phẩm tăng giá 1% thì số người không được đảm bảo về thực phẩm trên toàn thế giới lại tăng thêm 16 triệu người. Các chuyên gia đã nói tới những cuộc "chiến tranh bánh mì".
Trên thực tế, đã xảy ra bạo loạn và biểu tình vì khan hiếm lương thực ở Ai Cập, Haiti, Camơrun, Buốckina Phaxô. Đặc biệt, tại Haiti, một đảo quốc ở Trung Mỹ, vì lương thực quá đắt đỏ, dân chúng đã nổi loạn suốt mấy ngày liền, khiến thượng viện phải bãi nhiệm Thủ tướng Jacques Edouard Alexix, vì bị cho là không có khả năng kiểm soát thị trường. Còn ở các quốc gia Trung Đông như Baranh, Gioocđani, và các Tiểu vương quốc Arập Thống nhất, công nhân đã phát động nhiều cuộc biểu tình phản đối tình trạng khan hiếm lương thực. Ở Marốc, hàng chục người bị bỏ tù vì bạo loạn, ở Yêmen, từ đầu năm 2008 đã có hàng chục người bị giết trong những cuộc xung đột liên quan tới lương thực. Đầu tháng 4 vừa qua, tại Bờ Biển Ngà, có 1 người chết, tại Xênêgan có 24 người bị bắt trong những cuộc bạo loạn do giá lương thực tăng. Từ tháng Giêng đến nay, Pakixtan và Inđônêxia đã bố trí hàng ngàn binh lính để hộ tống những đoàn xe chở gạo và bột mì để khỏi bị dân chúng đang tuyệt vọng trong tình trạng thiếu lương thực, cướp bóc. Biểu tình đã bùng nổ ở Inđônêxia do khan hiếm đậu nành, còn ở Hồng Kông đầu tháng 4, quầy gạo trong các siêu thị bị vét sạch vì có tin đồn giá gạo sẽ tăng cao hơn nữa sau khi Hiệp hội các nhà hàng Hồng Kông nâng giá mỗi tô cơm từ 1 lên 2 HKD.
Đại sứ đặc biệt của LHQ về quyền lương thực, Jean Ziegler, nhận định về cuộc khủng hoảng này như sau: "Chúng ta đang tiến dần tới một giai đoạn kéo dài gồm bạo loạn, xung đột và các làn sống bất ổn không thể kiếm soát được mang tính khu vực, được đánh dấu bởi sự tuyệt vọng của đám đông quần chúng bị tổn thương nhiều nhất". Jean Ziegler cảnh báo rằng điều đang chờ đợi chúng ta ở phía trước là "một cuộc thảm sát hàng loạt đang cận kề" nếu chúng ta không thể giải quyết được vấn đề lương thực.
Ngay cả cựu Tổng thống Pháp, ông Jacques Chirac, trong bài viết của mình trên tờ Le Monde, số ra ngày 17/4/2008, đã phải thốt lên rằng: "Thế giới đang bị đặt trước những nguy cơ từng có, mà nếu không có những giải pháp khẩn cấp và nguồn vốn cần thiết, chúng ta sẽ góp phần làm cho các phong trào nổi dậy của người dân ngày càng mạnh mẽ, dẫn đến tình trạng di cư ồ ạt đến không thể kiểm soát nổi, gây ra những xung đột ngày càng nhiều đổ máu và chết chóc khiến cho sự bất ổn chính trị ngày càng tăng. Và một khi tất cả các thành phần này hội tụ sẽ tạo ra một sự khủng hoảng trầm trọng làm cho tình hình tồi tệ đến mức khó có thể cứu vãn nổi".
Ngoài ra, việc giá lương thực tăng mạnh còn gây trở ngại đáng kể cho chương trình viện trợ lương thực cho các nước nghèo của các tổ chức viện trợ quốc tế. Cụ thể là, Chương trình Lương thực Thế giới (WFP) đang hỗ trợ lương thực cho 28 triệu dân ở 14 nước châu Á và chi phí cho Chương trình này theo ước tính ban đầu là 630 triệu USD, nhưng giá lương thực tăng đã đẩy con số này lên tới 790 triệu USD. WFP hoặc là buộc phải tìm cách quyên góp thêm tiền hoặc là phải cắt bớt một số chương trình hoặc là phải thu hẹp quy mô của các chương trình viện trợ hiện có, vì theo ước tính của WFP, trong 3 tháng qua, sức mua từ nguồn quỹ của chương trình đã giảm 40% do giá lương thực tăng, trong khi hiện có 75 triệu người đang phải sống dựa vào nguồn trợ cấp này. Mà điều này cũng đồng nghĩa với việc số người nghèo sẽ có nguy cơ tăng lên. Đâu chỉ có thế, các tổ chức quốc tế còn cảnh báo rằng, khủng hoảng giá lương thực hiện nay, mặc dù khó nhận biết hơn so với cuộc khủng hoảng dầu mỏ, nhưng nếu không giải quyết sớm, rất có thể sẽ có nguy cơ gây ra những hiệu ứng của "một cơn sóng thần kinh tế và nhân đạo", ghê gớm tại các nước châu Phi nghèo đói, nơi có hàng chục triệu người lúc nào cũng bị đói triền miên.
2. Nguyên nhân
Cho đến nay, các tổ chức quốc tế và khu vực, các chính phủ, cũng như các cơ quan nghiên cứu tư nhân đã đưa ra nhiều đánh giá khác nhau về các nguyên nhân gây ra tình trạng tăng giá đột biến hay cuộc khủng hoảng lương thực hiện nay.
Thứ nhất, trong nhiều năm qua, cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là ở những nước đang phát triển từ nông nghiệp đi lên, trong đó có nhiều nước Đông và Đông Nam Á, bất chấp vai trò to lớn của nông nghiệp và nông thôn, trong đó có sản xuất lương thực và thực phẩm, trong đời sống kinh tế - xã hội, nông nghiệp và nông dân đã dần không được coi trọng. Mặc dù trên danh nghĩa, ở nhiều nước, "nông nghiệp vẫn được coi là lĩnh vực được ưu tiên đầu tư hoặc là mặt trận hàng đầu", song đầu tư cho phát triển nông nghiệp và nông thôn đã dần dần bị hy sinh cho các dự án đầu tư (cả từ trong nước lẫn nước ngoài) mang lại các khoản lợi nhuận nhanh, trực tiếp và to lớn (cho cả công cộng lẫn cá nhân các nhà quyết sách) vào các dự án công nghiệp, xây cất chung cư, các khu du lịch và nghỉ dưỡng. Tiêu biểu cho thái độ và tình trạng này là những quốc gia đang cất cánh như Trung Quốc và Ấn Độ mải chạy theo chính sách công nghiệp hóa và xao nhãng việc cải thiện nông nghiệp. Cả hai quốc gia đông dân nhất thế giới này đã tập trung sức người, sức của vào nền công nghiệp. Họ đã lầm tưởng rằng, với dự trữ ngoại tệ trong tay, họ có thể tiếp tục mua được lương thực ở khắp nơi trên thế giới. Đáng tiếc là thực tế đã diễn biến theo chiều ngược lại với suy nghĩ của họ. Hậu quả là, diện tích đất canh tác tốt dùng để trồng ngũ cốc và chăn nuôi đã liên tục bị giảm đi, "bị chôn vùi dưới các lớp bêtông của các dự án dô thị hóa và phát triển công nghiệp". Hay nói cách khác, sản lượng lúa gạo cũng giảm đi vì diện tích canh tác bị thu hẹp để nhường chỗ cho các dự án phát triển, ngoài nông nghiệp và ngốn rất nhiều diện tích đất canh tác. Tại Việt Nam, diện tích ruộng lúa bị thu hẹp mỗi năm lên tới 40.000 hécta; tại Thái Lan, tỉ lệ đất canh tác cũng đã giảm hơn 13% trong khoảng thời gian từ năm 1995 đến năm 2005. Còn ở Trung Quốc, theo Bộ Đất đai và Tài nguyên, năm 2007, diện tích đất trồng trọt ở nước này đã giảm 40.700 hécta so với năm 2006 xuống 121,73 triệu hécta, so với mức 127,6 triệu hécta năm 2001. Con số tối thiểu để có thể đảm bảo sản xuất đủ lương thực đáp ứng nhu cầu trong nước là 120 triệu.
Thứ hai, trong những năm 1970, cuộc Cách mạng Xanh ở châu Á đã làm tăng đáng kể sản lượng lúa gạo và giúp cho giá cả của loại lương thực này nằm ở mức thấp, trong khi chi phí cho các khoản đầu vào của nông nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu, tưới tiêu và lao động liên tục tăng cao, khiến cho việc trồng lúa đã trở thành một hoạt động không mang lại nhiều lợi nhuận và ngày càng trở nên kém hấp dẫn đối với cả chính phủ lẫn nông dân. Đồng thời, trong những năm 1980, các chính phủ ở các nước này bắt đầu giảm ngân sách dành cho "cuộc cách mạng xanh" do thỏa mãn với những thành quả của nông nghiệp. Thái độ này đã dẫn đến hậu quả là đầu tư cho nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lương thực, ngày càng sa sút. Chẳng hạn, tỉ lệ của ngân sách dành đề đầu tư cho nông nghiệp ở các nước đang phát triển đã giảm 50% trong thời gian từ năm 1980 đến năm 2004. Động thái này đã gây nên tác động từ từ khó nhận thấy. Hậu quả là năng suất lương thực ngày càng thấp dần đi ở các nước đang phát triển. Cụ thể là, trong thời gian từ những năm1980, năng suất của các vụ ngũ cốc đã tăng 3 - 6%/năm, nhưng hiện nay con số này giảm chỉ còn 1-2%/năm, thấp hơn tốc độ tăng của nhu cầu tiêu thụ. Hay theo một thống kê khác, năng suất lúa của châu Á ngày càng trở nên thấp hơn, chẳng hạn, hiện chỉ đạt 2,63 tấn/ha ở Thái Lan, 4,22 tấn ở Inđônêxia, 3,03 ở Ấn Độ... rất thấp so với 7,55 tấn ở Mỹ. Vào những năm 1970, nhờ Cách mạng Xanh, nên năng suất lúa toàn cầu đã tăng 40% trong 20 năm cuối của thế kỷ trước, song trong 7 năm qua, chúng chỉ tăng có 5% vì nông nghiệp ít được quan tâm. Do đó, đúng như tiến sĩ Robert Zeigler, tổng giám đốc Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế ở Philipin, đã nhận định: "Cuộc khủng hoảng lúa gạo hiện nay chính là cái giá mà chúng ta đang phải trả cho 15 năm "xao nhãng" phát triển nông nghiệp, đặc biệt là thiếu đầu tư vào công tác nghiên cứu các loại cây lương thực". Nhà kinh tế học người Pháp, ông Philippe Chalim, cũng có chung một nhận xét như vậy, khi ông nói: "Từ 20 năm nay, rất nhiều nước công nghiệp hóa đã chuyển từ chủ nghĩa sản xuất sang thái độ xem nhẹ nông nghiệp. Hậu quả là họ đã phải nhập cả những sản phẩm nông nghiệp rẻ nhất. Điều này khiến cho nguy cơ khủng hoảng lương thực ngày càng nhanh chóng trở thành hiện thực".
Thứ ba, các biện pháp trợ giá nông sản của Mỹ, và ở một chừng mực nhỏ hơn là của EU, từ lâu đã góp phần không chỉ ngăn chặn sự thâm nhập của các hàng hóa này vào các thị trường của họ, mà còn kiềm chế giá gạo trên thế giới, khiến giá gạo thấp và người nông dân, nhất là ở các nước nông nghiệp đang phát triển, không có lợi, nên giảm dần việc trồng lúa. Đúng như Tổng Giám đốc Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), ông Pascal Lamy, đã tuyên bố, cơ chế trao đổi thương mại bất bình đẳng, các khoản trợ cấp nông nghiệp "làm biến dạng thương mại" của các nước giàu cũng là nguyên nhân gây ra khủng hoảng, bởi chúng "hủy hoại ngành sản xuất lương thực của các nước nghèo".
Thứ tư, theo các nhà phân tích, sự gia tăng nhanh chóng của dân số thế giới - được dự báo là sẽ lên tới 9 tỉ người vào giữa thế kỷ XXI - và kéo theo đó là nhu cầu tiêu thụ lương thực ngày càng tăng được coi là một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra tình trạng khủng hoảng lương thực hiện nay. Điều này sẽ dẫn tới nhu cầu lương thực khổng lồ, đồng thời tạo áp lực lên một loạt nguồn tài nguyên như đất, nước và dầu mỏ. Cụ thể, theo Ngân hàng Trung ương Ôxtrâylia, năm 2007, dân số Trung Quốc tăng nhiều hơn gấp bội tổng số dân trong các nước kỹ nghệ hóa trong cùng thời gian trước đây và hầu như đông gấp 2 lần tổng số dân trong Nhóm các nước G7. Do dân số tăng nhanh như vậy nên theo ông Ban Ki Moon, trong ba năm qua, thế giới đã tiêu thụ nhiều lương thực hơn mức sản xuất. Cụ thể là gạo, trong nhiều năm sản lượng gạo của thế giới luôn chỉ quanh quẩn ở mức 420 triệu tấn/năm, mặc dù từ đó châu Á đã có thêm hàng trăm triệu miệng ăn nữa.
Thứ năm, những thảm họa thiên tai như nắng nóng, hạn hán, lụt bão, rét đậm rét hại, sâu bệnh do biến đổi khí hậu toàn cầu đã tàn phá mùa màng của các nước sản xuất ngũ cốc, như ở Nam Á, châu Âu, Xu Đăng, Môdămbich, Uruguay, Trung Quốc, Bănglađet và Việt Nam. Đáng chú ý là, úc là một trong những nước sản xuất lúa mì hàng đầu thế giới đã bị hạn hán liên tục trong 10 năm qua, và theo nhiều đánh giá, nước này còn có nguy cơ có thể bị mất vĩnh viễn vai trò là một nước xuất khẩu gạo có vai vế trên thị trường.
Thứ sáu, trong nhiều năm qua, nhất là trong vài năm gần đây, giá dầu liên tục đạt những đỉnh cao mới, từ 30 USD/thùng năm 2006 đã lên tới 120 USD hiện nay (tức gấp 4 lần), khiến cho giá cả của các sản phẩm từ dầu phục vụ nông nghiệp, như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, điêzen, điện, và chi phí vận chuyển ngũ cốc cũng tăng theo. Chẳng hạn, giá một tấn phân bón đã tăng 110 USD trong vòng 1 năm trở lại đây, hoặc tăng ít nhất 200% trong 5 năm qua. Bị trả giá quá cao cho các khoản đầu vào này, nên cả các nhà sản xuất ngũ cốc lẫn các công ty phân phối lương thược hoặc là sẽ thu hẹp sản xuất, giảm bớt các yếu tố đầu vào mà hậu quả là năng suất và sau đó là sản lượng lương thực sẽ giảm sút mạnh, hoặc là "đổ cho người tiêu thụ phải gánh chịu" bằng cách nâng giá lương thực lên cao. Hơn nữa, do những quan ngại về giá dầu cao, cũng như để giảm ô nhiễm môi trường, và để bảo đảm an ninh năng lượng, nhiều nước đã buộc phải chuyển sang phát triển và sử dụng năng lượng sinh học chế từ các loại ngũ cốc khác nhau. Điều này càng tăng thêm áp lực làm tăng giá lương thực tế giới (ngô, đường và đậu nành) như một vòng hệ lụy. Chẳng hạn, Mỹ đã cam kết sản xuất 9 tỉ galông (khoảng 34 tỉ lít) ethanol, là loại nguyên liệu sinh học làm từ ngô trong năm 2008 và sẽ tăng thành 10 tỉ galông vào năm 2009. Năm 2008, diện tích trồng ngô để sản xuất ethanol ở Mỹ đã tăng lên đáng kể, đã có 18% sản lượng ngũ cốc của Mỹ bị đưa vào sản xuất ethanol và dự kiến nguồn nhiên liệu này sẽ ngôn tới 30% sản lượng ngô cảu Mỹ vào năm 2010. Không chỉ có Mỹ, các nước công nghiệp phát triển khác, như EU, cững đang thực hiện các mục tiêu phát triển nhiên liệu sinh học đầy tham vọng của riêng mình, khi đưa ra dự định sẽ nâng tỉ lệ nhiên liệu sinh học lên 10% tổng nhiên liệu mà khu vực này sẽ tiêu thụ vào năm 2020. Thực tế này cũng đồng nghĩa với việc các loại ngũ cốc này sẽ nhanh chóng lấn chiếm đất dành để sản xuất lương thực cho người và gia súc và khiến giá ngô trên thị trưởng thế giới tăng cao., Cũng tương tự như vậy, dầu dừa - nguồn thực phẩm chủ yếu của người Indonesia và Malaysia - hiện đã trở nên rất đắt đỏ, khiến cho dân nghèo ở đây trở nên khốn khó hơn, vì những khối lượng lớn dầu dừa ngày càng được chuyển sang sản xuất nhiên liệu sinh học.
Thứ bảy, cùng với quá trình công nghiệp hóa và tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong vài thập kỷ qua, đời sống của người dân của hai nước khổng lồ là Ấn Độ và Trung Quốc đã trở nên ngày càng sung túc hơn. Điều này không những đã góp phần làm tăng nhu cầu tiêu thụ lương thực, mà còn làm thay đổi cả chế độ ăn uống của người dân các nước này, đặc biệt làm tăng nhu cầu tiêu thụ thịt. Người Trung Quốc bắt đầu tiêu thụ nhiều thịt hơn kể từ năm 2001. Tính bình quân, trong năm 1985, một người Trung Quốc ăn 20 kg thịt/năm, còn hiện nay con số đó là 50 kg. Trong khi đó, theo tính toán của các chuyên gia, phải cần tới 7kg ngũ cốc mới có thể sản xuất được 1kg thịt bì. ĐIều đó có nghĩa là, đất canh tác dùng để sản xuất thực phẩm cho con người giờ bị dùng để trồng thực phẩm cho gia súc.
Thứ tám,mấy năm gần đây, do chi phí bảo quản gạo dự trữ trong kho ngày một tăng cao, trong khi tình hình thị trường gạo cung không đủ cầu, nên chính phủ các nước đã liên tiếp giảm lượng gạo tồn kho khiến dự trữ gạo của thế giới không ngừng giảm sút. Hiện lượng gạo dự trữ của toàn cầu là hơn 75 triệu tấn, mức thấp nhất kể từ khi xảy ra nạn đói ở Bangladesh vào giữa những năm 1970, hay giảm tới gần 1/2 kể từ mức cao kỷ lục vào niên vụ 2000/01, cho dù đã có sự phục hồi từ mức khá thấp trong niên vụ 2004/05. Đồng thời với tình trạng đó là những dự báo cho rằng sản lượng gạo năm nay dự tính chỉ đạt 430 triệu tấn, càng khiến cho tâm lý hoang mang, lo sợ thiếu nguồn cung lương thực trở nên nghiêm trọng hơn. Hậu quả là giá lương thực trên thị trường thế giới, nhất là ở các nước nhập khẩu, bị đẩy lên những mức cao mới.
Cuối cùng, một số nguyên nhân phụ như cuộc khủng hoảng tài chính, đồng đôla Mỹ mất giá, cơ chế thương mại bất công, việc nhiều nhà kinh doanh bỏ tiền ra đầu cơ, cũng góp phần đẩy giá lương thực tăng vọt trong thời gian ngắn. Về nạn đầu cơ tích trữ, người ta nhận thấy rằng, tình trạng này xảy ra ở cả hai đầu của cán cân cung cầu. Những người tiêu thị đang đua nhau mua gạo dự trữ vì họ sợ rằng, giá gạo sẽ tăng thêm. Trong khi đó, những người bán sỉ cũng ra sức tích trữ gạo với hy vọng sẽ có thể bán được với giá cao hơn. Ông Samak Sundaravej, Thủ tướng Thái Lan cho rằng: "Ngay ở Thái Lan, mọi người cũng đổ xô đi mua nhiều gạo bởi vì họ đang lo ngại. Trước đây, họ thường đong một bao, nhưng bây giờ họ mua tới 5 bao. Những người thường mua 2 bao thì giờ mua tới 10 bao. Họ cho rằng, tình trạng khủng hoảng lương thực hiện nay không thể giải quyết được trong thời gian ngắn, nên phải tích trữ để phòng thân và kiếm lời. Theo ông Zeal Ziegler, báo cáo viên của LHQQ về dinh dưỡng, đầu cơ gánh tới 30% trách nhiệm gây ra sự bùng nổ giá cả lương thực trên thị trường toàn cầu
Bảng: Tình hình gạo trên thế giới
Niên vụ | Sản lượng | Xuất khẩu | Tiêu dùng trong nước | Dự trữ cuối niên vụ |
2000/01 | 398,9 | 24,4 | 395,5 | 147,1 |
2001/02 | 399,7 | 27,9 | 413,5 | 133,3 |
2002/03 | 378,1 | 27,6 | 407,9 | 103,5 |
2003/04 | 391,7 | 27,2 | 413,2 | 82,1 |
2004/05 | 400,8 | 29,2 | 408,4 | 74,4 |
2005/06 | 418,1 | 29,4 | 416,0 | 76,5 |
2006/07 | 420,6 | 30,3 | 420,9 | 76,1 |
2007/08 | 425,3 | 27,5 | 424,2 | 77,2 |
Nguồn: Bộ Nông nghiệp, Mỹ (USDA)
3. Giải pháp chủ yếu
Đứng trước tình trạng khủng hoảng lương thực, nhất là gạo, ngày càng trầm trọng và có nguy cơ bùng nổ thành các cuộc bạo loạn xã hội, ngoài những biện pháp cấp thời như truy quét những kẻ đầu cơ, bố trí binh lính giữ trật tự các điểm phân phối lương thực... các nước và các tổ chức quốc tế đã và đang tìm các giải pháp căn cơ hơn. Song trong lúc cung cầu mất cân đối và giá lương thực tăng vọt như hiện nay, thì mọi giải pháp đều có những mặt tích cực và tiêu cực riêng.
Đối với các nước nhập khẩu lương thực, họ đã tiến hành tăng mua, tăng dự trữ gạo quốc gia: Tâm lý lo ngại nguồn gạo trên thị trường sẽ thiếu hụt trong bối cảnh giá lương thực ngày càng tăng cao trên toàn cầu đã khiến nhiều nước châu Á - nơi có gần 3 tỉ người lấy gạo làm lương thực cơ bản trong bữa ăn hàng ngày và có tới gần 1,9 tỉ người vẫn đang phải sống chỉ với 2 USD/ngày hoặc thậm chí còn thấp hơn - vội vã đẩy mạnh việc nhập khẩu gạo. Gary Teves, Bộ trưởng tài chính Philipin, cho biết Ngân hàng Nhà nước sẽ cho Công ty lương thực quốc gia vay 20 tỉ Peso (480 triệu USD0 để mua gạo nhập khẩu. Trong một kế hoạch tổng thể nhằm đối phó với khủng hoảng lương thực, Tổng thống Gloria M. Arroyo công bố sẽ chi ra 40 tỉ peso từ nay đến năm 2010 để mua gạo, vật tư nông nghiệp và hỗ trợ nông dân mở rộng sản xuất. Trước mắt, Bộ trưởng Nông nghiệp Arthur Yap cho biết, Philippin sẽ nâng mức nhập khẩu lương thực thêm 42% tức 2,7 triệu tấn trong năm nay so với 1,9 triệu tấn năm ngoái. Đồng thời chính phủ Pilippin và Xrilanka cố gắng tiến hành đàm phán với một số nước xuất khẩu gạo như Thái Lan, Việt Nam và thậm chí cả Mianma để có được lời cam kết chắc chắn của các nước này là sẽ cung cấp ổn định gạo cho họ trong nhiều năm tới. Trong chiều hướng tương tự, Cơ quan dự trữ quốc gia Indonesia cũng đề nghị chính phủ cho nâng lượng gạo dự trữ từ 1 triệu tấn lên 2,5 triệu tấn.
Tuy nhiên, theo giới chuyên gia, việc các nước tranh nhau mua gạo dự trữ có thể lại càng làm cho giá gạo tăng mạnh hơn nữa. Các loại gạo thơm do Ấn Độ và Thái Lan sản xuất hiện đã lên mức hơn 1000 USD/tấn, loại gạo thường cũng đã lên 760 USD/tấn, cao hơn 2 lần so với giá 360 USD/tấn hồi cuối năm ngoái.
Các nước xuất khẩu cấm hoặc hạn chế xuất khẩu lương thực (gạo và lúa mì): Để đảm bảo lương thực đủ cung ứng cho nhu cầu trong nước giữa lúc lạm phát gia tăng, và nhằm trấn an tâm lý khủng hoảng của người dân trong nước, hiện nhiều nước đã tiến hành cấm hoặc hạn chế xuất khẩu gạo, bột mì và một số loại ngũ cốc khác. Chẳng hạn, Ai Cập ngưng xuất khẩu gạo trong 6 tháng kể từ tháng 4/2008; Cămpuchia thu hồi giấy phép xuất khẩu gạo của doanh nghiệp tư nhân; Ấn Độ cấm hoàn toàn việc xuất khẩu gạo trừ loại gạo thơm có giá rất cao; Việt Nam giảm 1/2 lượng gạo xuất khẩu trong năm nay. Ngay cả trước khi các chính phủ quyết định hạn chế xuất khẩu, các công ty xuất khẩu gạo cũng đã không muốn ký hợp đồng bán gạo vì muốn chờ xem giá gạo sẽ lên đến mức nào. Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam và Ai Cập chiếm 1/3 lượng gạo xuất khẩu toàn thế giới, nên khi các nước này ngừng bán ra, đã lập tức làm giảm 1/3 các giao dịch mua bán gạo trên thị trường, khiến thị trường lương thực thế giới bị chao đảo và giá cả sản phẩm này tăng vọt.
Đứng trước tình hình đó, Bộ trưởng Nông nghiệp Nhật Bản, ông Masatoshi Wakabayashi, cho biết, Nhật Bản - nước phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu lương thực và chỉ tự cung cấp được 39% tổng nhu cầu lương thực trong nước - sẽ đề nghị WTO đặt ra những quy định rõ ràng đối với việc hạn chế xuất khẩu lương thực áp dụng bởi các nước xuất khẩu, để tránh gây ra tình trạng thiếu hụt nguồn cung giả tạo, đẩy giá lương thực lên cao.
Còn Tổng thư ký LHQ, ông Ban Ki Moon, nhận định động thái (hạn chế xuất khẩu và tăng cường nhập khẩu để nâng cao nguồn dự trữ) này của một số nước là sai lầm và "đe dọa làm méo mó thương mại quốc tế, khiến tình trạng thiếu hụt lương thực càng trầm trọng hơn". Tổng Giám đốc điều hành Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), ông R. Nagơ, cũng cho rằng, nhiều nước châu Á đã phản ứng quá mức trước việc giá lương thực tăng cao bằng cách cắt giảm xuất khẩu và theo ông nên sử dụng các biện pháp tài chính để hỗ trợ người nghèo. Uỷ viên thương mại của EU, Peter Mandelson, chỉ trích các nước sản xuất lương thực đổ thêm dầu vào lửa khi ban hành lệnh hạn chế xuất khẩu. Chủ tịch WB, ông Robert Zoellick, cũng kêu gọi các nước xuất khẩu lương thực bãi bỏ lệnh cấm hoặc hạn chế xuất khẩu. Theo ông: "Các biện pháp kiểm soát kiểu này khiến các nước càng tích trữ lương thực ào ạt, đẩy giá lương thực thực phẩm lên cao và gây tổn thương những người nghèo nhất thế giới đang thiếu ăn".
Ngoài ra, việc hạn chế xuất khẩu lương thực của một số nước còn khiến cho chương trình viện trợ lương thực cho các nước nghèo và thiếu lương thực trở nên khó khăn hơn. Chẳng hạn, WFP đã vấp phải rào cản này tại Trung Quốc khu mua lương thực để viện trợ cho CHDCND Triều Tiên. Ông Tony Banbury, Giám đốc phụ trách khu vực châu Á của WFP cho biết, Pakixtan cấm xuất khẩu bột mì có nghĩa là WFP không thể mua được lương thực để hỗ trợ Apganixtan. Philipin cũng gặp phải khó khăn tương tự về nguồn cung và không thể nhập nổi đủ lượng gạo cần thiết.
Các chính phủ và các tổ chức quốc tế đang tăng cường những nỗ lực chung nhằm ngăn chặn khủng hoảng lương thực toàn cầu: Ngoài việc viện trợ lương thực khẩn cấp cho những nước đang bị đe dọa trực tiếp và nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng này, như Triều Tiên, Bănlađet, Haiti, Philipin... các chính phủ và các tổ chức còn tổ chức rất nhiều các hội nghị cấp toàn cầu và khu vực để tìm ra các nguyên nhân, các giải pháp (trước mắt và lâu dài) nhằm khắc phục và giúp các nước vượt qua cuộc khủng hoảng này.
Trong cuộc họp chung với IMF, ở Washington (Mỹ) vào đầu tháng 4 vừa qua, Chủ tịch WB đã kêu gọi cộng đồng quốc tế nên đi đến "một thoả thuận mới" để giúp những nước nghèo đủ sức cung cấp lương thực cho các thành phần khốn khó nhất trong xã hội. Ông đề nghị, bắt đầu từ ngày 1/5/2008, các nước nên đóng góp vào Chương trình Lương thực Thế giới của LHQ 500 triệu USD để tổ chức này có thể gấp rút tiến hành kế hoạch cứu đói tại nhiều quốc gia. Đồng thời, ông cũng đề nghị Ban Giám đốc thành lập một cơ chế tài chính nhanh để hỗ trợ tài chính cho các nước nghèo, dễ bị tổn thương và tài trợ nhanh chóng, linh hoạt cho các nước khác, nhằm giúp nông dân các nước này có điều kiện thoát khỏi tình trạng thiếu vốn để sản xuất lương thực. IMF cũng đang xem xét để hỗ trợ tài chính thêm cho các nước đang bị mất cân đối nghiêm trọng về thanh toán do giá lương thực và giá dầu lên cao.
Hội nghị Thương mại và Phát triển của LHQ (UNCTAD) đã tổ chức Hội nghị lần thứ 12 trong vòng 6 ngày, từ ngày 20/4, tại Accra, thủ đô Ghana với chủ đề "Cơ hội và thách thức do toàn cầu hóa mang lại cho phát triển". Hội nghị đã dành ưu tiên cho vấn đề biến động giá lương thực toàn cầu trong đó có các biện pháp đảm bảo an ninh lương thực và kiềm chế giá lương thực gia tăng. Đại diện nhiều nước và tổ chức quốc tế tham dự cuộc họp đã kêu gọi các bên sớm kết thúc thương lượng trong khuôn khổ Vòng đàm phán Đôha và ký các hiệp định mới về tự do hóa thương mại toàn cầu để tạo điều kiện cho nông nghiệp của các nước đang và chậm phát triển và thúc đẩy kinh tế thế giới phát triển.
Ngày 29/4, tại cuộc họp các cơ quan LHQ ở Bern (Thụy Sĩ), Tổng thư ký LHQ, ông Ban Ki Moon, đã kêu gọi các nước chấm dứt trợ giá làm mất cân đối thị trường, tăng sản lượng lương thực, đồng thời cam kết sẽ sử dụng mọi quyền lực của LHQ để xua tan cơ "bão giá" lương thực và tuyên bố thành lập Nhóm công tác đặc biệt do ông trực tiếp lãnh đạo để có kế hoạch và phối hợp hành động của các cơ quan của LHQ nhằm chống lại cuộckhủng hoảng lương thực đang hoành hành toàn cầu này. Thành viên của nhóm là lãnh đạo các cơ quan, quỹ, chương trình của LHQ, cùng đại diện của IMF, WB và Ban thư ký LHQ. Nhóm công tác đã đề xuất nhiều biện pháp giải quyết khủng hoảng trong thời kỳ ngắn hạn và lâu dài, với ưu tiên hàng đầu là gây quỹ 755 triệu USD cho WFP. Đồng thời, WFP cũng đã lên kế hoạch trị giá 1,7 tỉ USD cung cấp hạt giống cho nông dân những nước nghèo nhất thế giới. WB cũng tăng gấp đôi cho vay nông nghiệp cho châu Phi lên 800 triệu USD trong năm tới.
Ngày 22/1, Hội nghị cấp cao Luân Đôn do Thủ tướng Anh, G. Brao, chủ trì với sự tham gia của các nhà hoạch định chính sách, chuyên gia lương thực và đại diện các tổ chức quốc tế đã đề xuất kế hoạch giải quyết cuộc khủng hoảng giá lương thực đang diễn ra trên thế giới. Ông kêu gọi cộng đồng quốc tế cần có cả các kế hoạch ngắn hạn và tổng thể nhằm khắc phục tình trạng này, đồng thời tiến hành "một cuộc cách mạng nông nghiệp" để đạt năng suất lương thực cao hơn. Dự kiến những đề xuất tại Hội nghị này sẽ được tiếp tục thảo luận tại Hội nghị EU diễn ra vào tháng 6, Hội nghị nhóm các nước công nghiệp phát triển (G8) vào tháng 7 và Hội nghị của LHQ vào tháng 9 tới.
Ngày 1/5/2008, Tổng thống Mỹ, G. Bush, đã đề nghị Quốc hội Mỹ phê chuẩn khoản viện trở khẩn cấp 770 triệu ÚD cho các nước nghèo, trong đó 600 triệu USD là viện trợ lương thực trực tiếp và 100 triệu USD để giúp các nước nông nghiệp đang phát triển tìm cách nâng cao sản lượng lương thực. Cùng ngày hôm đó, chính phủ Canada cho biết sẽ dành 50 triệu CAD cho công tác cứu trợ lương thực để giúp các nước đang phát triển đối phó với tình trạng giá lương thực tăng cao dẫn đến bạo loạn và bất ổn ở các quốc gia này. Ngoài ra, lãnh đạo các nước Nam Mỹ như Bolivia, Nicaragua, Venezuela và Cuba đã cam kết bỏ ra 100 triệu USD để gia tăng sản lượng các loại lương thực chủ yếu như gạo, đậu và lúa mì để giúp hạ nhiệt "cơn sốt" giá.
Hỗ trợ nông dân để làm nhẹ bớt các khó khăn của họ, bù lỗ và khuyến khích nông dân tăng năng suất và mở rộng diện tích trồng lúa thay vì trồng các loại nông phẩm khác:Trong số 58 nước, mà phản ứng của họ đang được Wb theo dõi, 48 nước đã đưa ra những quy định kiểm soát giá, trợ cấp cho người tiêu dùng và hỗ trợ để bù lỗ cho người trồng ngũ cốc. Tại Inđônêxia, để hỗ trợ cho tầng lớp dân nghèo vượt qua tình cảnh khốn khó, chính phủ đã trợ cấp tiền bạc và nhu yếu phẩm. Các nước khác trong vùng cũng đang xem xét các biện pháp tương tự. Song song với việc kiểm soát giá gạo trên thị trường, Trung Quốc đã nâng giá thu mua thóc lúa của nông dân thêm 7%; tại Philipin, Cơ quan lương thực quốc gia nâng giá mua thóc từ 12 Peso/kg lên 17 Peso/kg trong mọi nỗ lực giảm nhẹ khó khăn của nông dân.
Cần có một cuộc Cách mạng Xanh mới: Theo nhiều chuyên gia, do diện tích đất canh tác danh cho nông nghiệp, đặc biệt đất tốt để trồng cây lương thực, đã bị thu hẹp đáng kể và có lẽ xu hướng này sẽ khó có thể đảo ngược được trong nhiều năm tới, nên để có thể tăng được sản lượng lương thực cung cấp cho một số dân thế giới ngày càng khổng lồ, biện pháp tốt nhất bây giờ là tìm cách nâng cao năng suất lương thực thông qua việc áp dụng các giống ngũ cốc cao sản mới. Tức là phải có một cuộc Cách mạng Xanh mới về trồng trọt. Tuy nhiên, đây là giải pháp trường kỳ, chưa có hiệu quả ngay trước mắt, đòi hỏi phải có sự nỗ lực và hợp tác chung của cả cộng đồng thế giới và những khoản đầu tư đáng kể vào nghiên cứu và sản xuất cùng những bước đi thích hợp với điều kiện biến đổi khí hậu toàn cầu hiện nay. Thậm chí theo tiến sĩ Robert Zeigler, Tổng Giám đốc, Viện Nghiên cứu Lúa quốc tế (IRI) ở Philippines, muốn tăng được năng suất lúa, chúng ta cần thúc đẩy việc canh tác một số giống lúa biến đổi gen có thể thích nghi được với nước lụt hoặc hạn hán và buộc các chính phủ phải đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho nông nghiệp như thủy lợi, cơ giới hóa, giao thông... Ông cũng cho rằng: "Chúng ta cần phải tái khởi động công cuộc đầu tư vào lĩnh vực nghiên cứu và phát triển lúa gao". Ông Nehru Vikram, nhà kinh tế của WB, phụ trách khu vực Đông Á - Thái Bình Dương cũng cho rằng: "việc cần phải làm ngay bây giờ là đầu tư nhiều hơn nữa vào nông nghiệp để tăng sản lượng, đồng thời phải bắt đầu bỏ vốn vào các dự án nhơ thủy lợi, cải tạo giống cây tồng, mở rộng phương thức canh tác.
Duy trì và sử dụng có hiệu quả hơn quỹ đất dành cho nông nghiệp, nhất là dùng để trồng cây lương thực:Năm 2007, chính phủ Trung Quốc và năm 2008 chính phủ Việt Nam đã ban hành quy định về bảo vệ đất canh tác, phát động các chiến dịch điều tra sử dụng đất của các doanh nghiệp, xử lý nghiêm những trường hợp sử dụng đất sai mục đích nhằm hạn chế tình trạng mất đất sản xuất nông nghiệp do quá trình đô thị hóa. Hiện chính phủ Trung Quốc đang tiến hành nghiên cứu để ban hành kế hoạch sử dụng đất toàn quốc đến năm 2020, nhằm bảo vệ diện tích đất trồng hiện đang giảm xuống gần tới mức tối thiểu cho phép và nâng cao hiệu quả của việc sử dụng các khu đất dành cho phát triển.
Đẩy nhanh Vòng đàm phán thương mại Đôha trong khuôn khổ WTO để có một cơ chế thương mại công bằng và hợp lý hơn: Ông Peter Mandelsson, ủy viên thương mại EU, nói rằng, việc sớm kết thúc vòng đàm phán thương mại tự do toàn cầu Doha bị trì hoãn lâu nay là sự lựa chọn dài hạnt ốt nhất để hỗ trợ các nước đang phát triển bởi nó sẽ mở cửa các thị trường và giảm những khoản trợ cấp nông nghiệp cảu những nước giàu, tạo điều kiện cho các nông sản, trong đó có lương thực, của các nước đang và chậm phát triển có thể cạnh tranh tốt hơn trên các thị trường thế giới. Dự kiến, bộ trưởng các nước sẽ tham gia cuộc họp của WTO tại Giơnevơ (Thụy Sĩ) trong thời gian tới để tìm kiếm nỗ lực cuối cùng nhằm đạt được thỏa thuận trên trước khi những sự thay đổi trong bộ máy lãnh đạo Mỹ và EU trong năm tới sẽ có thể trì hoãn hơn nữa tiến trình này.
4. Kết luận
Liệu tình trạng thiếu gạo gại châu Á có kéo dài hay không? FAO tỏ ra lạc quan cho rằng, sản lượng gạo toàn cầu sẽ tăng từ 7-8 triệu tấn trong năm tới. Nếu không bị thiên tai, việc khuyến khích nông dân gia tăng sản xuất sẽ cho phép làm dịu thị trường gạo. Thế nhưng, lương thực thế giới nói chung và gạo nói riêng, trong trung hạn sẽ khó mà giảm giá. Bức tranh lương thực về lâu dài sẽ còn ảm đảm vì nhiều nguyên nhân thuộc về cơ cấu, khiến cho tình hình rất khó trở lại bình thường trong 1-2 năm tới. Đúng như Giám đốc điều hành ADB, ông Nage Rajat, đã nói, một loạt yếu tố đã đẩy giá lương thực trên thị trường thế giới tăng cao và nếu giá cả không tăng thêm thì cũng khó có thể quay lại mức trước đây. Ông nói: "Chúng ta phải chấp nhận thực tế là kỷ nguyên lương thực giá rẻ đã qua. Mặc dù nguồn cung gạo tại châu Á hiện ở mức thấp nhất trong nhiều thập niên qua, nhưng ADB tin rằng vẫn có đủ để đáp ứng nhu cầu, một số nước có thể sẽ cần đến viện trợ để cung cấp lương thực cho hàng triệu người thiếu ăn, nhưng sẽ không xảy ra nạn đói.
Về triển vọng dài hạn, tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu dẫn tới việc mất đất canh tác được dự báo là sẽ ngày càng xấu đi. Kèm theo đó, là dự báo dài hạn về giá năng lượng không theo chiều hướng giảm. Thêm nữa là xu hướng sản xuất nhiên liệu sinh học khó có khả năng bị đảo ngược. Gộp tất cả những yếu tố này lại thì có vẻ như giá lương thực chỉ có tăng lên thêm nữa chứ không giảm đi.
Trước mắt, chúng ta cần khuyến khích nông dân quay lại với nghề nông, quay lại với trồng trọt, bởi vì những năm gần đây, mức sản xuất không đảm bảo nhu cầu lương thực của thế giới.Cộng đồng quốc tế nên nắm bắt lấy cơ hội này, tức là cần lợi dụng giá nông phẩm đang cao để khuyến khích nông dân đẩy mạnh sản xuất. Điều đó có nghĩa là chúng ta tạo điều kiện thuận lợi để nông dân trên thế giới dễ có hạt giống, mua được phân bón, tưới tiêu thuận lợi cho các khu vực trồng trọt. Các tổ chức quốc tế, trước hết là FAO đang có chủ trương đẩy mạnh sản xuất lương thực bằng cách giúp đỡ nông dân.
Để có thể giải quyết được một cách căn bản và bền vững cuộc khủng hoảng lương thực, chúng ta cần phải đầu tư vào R&D (nhằm phát triển sản xuất và tìm ra các giống cây trồng phù hợp với quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu và sự khan hiếm nước), đào tạo và chuyển giao kỹ thuật nông nghiệp cho các nước nông nghiệp chậm phát triển và đang khó khăn. Đồng thời, chúng ta cần phải hỗ trợ cho những nông dân trực tiếp sản xuất lương thực. Những người này cần phải nhận được sự đền bù thỏa đáng cho những nỗ lực của họ, bởi vì lâu nay, các thương lái chứ không phải họ luôn là những người được hưởng lợi nhiều nhất từ tăng giá lương thực. Điều quan trọng hơn nữa là, chúng ta cần phải nhận thức lại, phải thực sự coi trọng vai trò nền tảng cho nền kinh tế của nông nghiệp, vốn lâu nay đã bị hy sinh cho quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa. Ngoài ra, sự trao đổi phải được tuân thủ theo các nguyên tắc bình đẳng, vừa tôn trọng người tiêu dùng và người sản xuất, vừa tôn trọng quyền lợi của người tiêu dùng ở các nước phát triển, lại vừa đảm bảo được lợi ích cho người nông dân và sản phẩm của họ ở các nước nông nghiệp đang phát triển. Việc tự do lưu thông hàng hóa không được phép gây thiệt hại cho những người nông dân sản xuất nhỏ, thường là đối tượng dễ rơi vào tình trạng bấp bênh nhiều nhất.