Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 24/03/2010 18:25 (GMT+7)

Ngày xuân tản mạn Xuân – Thu trong thơ Thiền thời Lý - Trần

Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà sách Thánh đăng lụclại ghi chép về sự tích của năm vị vua – năm vị Thiền sư đời Trần. Đó là Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Năm vị Thiền sư thi sĩ này ai cũng làm thơ và ai cũng có thơ Xuân. Thi sĩ nào mà chẳng có thơ Xuân? Mùa xuân là mùa của đất trời, của nong sông, của vạn vật… Có ai sống trên đời lại thờ ơ trước xuân đến và dửng dưng trước xuân đi, huống hồ là thi sĩ? Vậy thiên hạ thường “vui Xuân” chứ ít ai lại đi “buồn Xuân” bao giờ? Tuy vậy, đôi khi đó, đây cũng không tránh khỏi cái gọi là “Xuân sầu”. Nhưng tìm khắp trong thơ của các vị Thiền sư thì chẳng thấy “Xuân sầu” nào cả. “Thu” còn chưa sầu, làm sao mà “sầu” Xuân được! Thi nhân Trung Quốc thường “sầu” về mùa thu là đúng thôi. Thời tiết ôn đới lạnh lẽo, lá vàng rơi rụng để rồi chơ vơ, trơ trụi ở mùa đông băng tuyết, ai mà chẳng sầu? Trong chữ Hán chữ “sầu”, bên trên là chữ “Thu” dưới là chữ “Tâm” có nghĩa là tâm trạng mùa thu. Mùa thu là mùa lúa, mùa gặt hái. Gặt hái xong nhưng lại lo mùa đông đến trồng trọt không được, sinh sống khó khăn cho nên ‘sầu’ là phải. Cảm giác “sầu” về mùa thu ở xứ lạnh hoá ra lại cũng chẳng khác nhau lắm. Ở Nga cũng lạnh lắm cho nên “sầu” cũng liên quan đến mùa thu, khi người ta sầu đương nhiên bộ mặt trông thật thiểu não, cho nên ở Nga bộ mặt “sầu” được gọi là “bộ mặt tháng Chín” (Tháng Chín thuộc về mùa thu). Chẳng phải là ngôn ngữ biểu đạt tình cảm của nhân loại giống nhau ở chỗ cùng phụ thuộc vào diễn biến của tự nhiên, của thời tiết đó sao? Chữ “Xuân” trong chữ Hán cổ cũng được cấu tạo theo cách đó. Chữ “Xuân” gồm có bộ “Thảo” (thực vật), chữ “Đồn” có nghĩa là mọc, sinh trưởng và chữ “Nhật” là mặt trời. Có nghĩa là mùa mà cây cỏ sinh sôi nẩy nở dưới ánh mặt trời. Mùa xuân chim én lượn, chim én khi ăn hay nuốt làm cho cổ phình ra. Người Trung Quốc gọi chim én là “yen zi” và động tác “nuốt” cũng gọi là “yen”. Tiếng Anh, chim én được gọi là “swallow” và nuốt cũng gọi là “swallow”. Vậy là ngôn ngữ của nhân loại ít nhiều cũng gặp nhau trong tương quan với môi trường sống ( xem: Hệ thống khoa học Hán tự An Tử Giới).

Còn ở xứ nhiệt đới, mùa đông tuy lá rụng ít nhiều, nhưng đã “ăn thua” gì đâu, cây cỏ vẫn vậy, chẳng thay đổi gì nhiều, huống hồ là mùa thu. Mùa thu lá cũng vàng, trời cũng lành lạnh, nhưng có vẻ trầm lắng hơn là buồn. Ao thu tuy “lạnh lẽo” nhưng nước thì “trong veo”, cho dù khách có “vắng teo” đi nữa thì không gian bao la làm cho “thu sắc” tĩnh mịch hơn là đượm buồn. Cho dù thi sĩ trước cảnh “vàng rơi thu mênh mông” thì cũng chỉ “buồn vương” cây ngô đồng, nghĩa là buồn “man mác” thôi chứ không đến nỗi sầu bi.

Nói chung, cảnh vật như thế nào thì người như thế ấy. Nhưng nếu chỉ như vậy thì đâu phải là nhà thơ. Nhà thơ mượn cảnh để tả tình, tình thường vẽ nên cảnh hơn là cảnh vẽ nên tình. Cho nên “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Đó là thi sĩ người trần mắt thịt ở chốn “thế gian”, còn thi sĩ Thiền sư “xuất thế gian” thì không phải như vậy. Không biết nên gọi Trần Nhân Tông là thi nhân “thế gian” hay “xuất thế gian”? Ở đâu thì không biết, chứ thi sĩ Trần Nhân Tông tác giả của bài Cư trần đạo phúlàm sao có thể cho là thi sĩ “thế gian” được? Chỉ bốn câu thôi cũng có thể diễn đạt tinh thần của đạo Phật cũng như nhân sinh quan của tác giả:

Sống ở đời vui với đạo tuỳ theo đời,

Đói thì ăn, buồn ngủ thi đi ngủ,

Trong nhà có vật quý cần gì phải đi tìm ở đâu,

Đứng trước cảnh vật mà vô tâm thì cần gì phải nói đến Thiền.

(Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên,

Cơ tắc xan hề khốn tắc miên,

Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch,

Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền).

( Cư trần lạc đạo phú)

Thiền sư thi nhân “xuất thế gian” như Trần Nhân Tông chẳng hạn, làm sao mà vui buồn theo cảnh vật bên ngoài được, hoặc bắt cảnh vật bên ngoài phải vui buồn theo mình được. Bốn chữ “đối cảnh vô tâm” đã nói đầy đủ điều đó rồi. Nhưng thi sĩ mà “vô tâm”, chẳng chút rung động gì trước cảnh Xuân đến, Thu đi thì sao gọi là thi sĩ? Thi sĩ Trần Nhân Tông có lẽ vừa là thi sĩ vừa là “siêu” thi sĩ. Còn nhớ Lục Tổ Huệ Năng đã cảnh cáo đệ tử vì đã để cho cái Tâm bị “bay”. Hai đệ tử cãi nhau, một bên cho là phướng bay, một bên lại cho là gió bay, không bên nào chịu bên nào. Hai đệ tử bèn nhờ Lục Tổ giải đáp. Lục Tổ phán rằng gió không bay mà phướng cũng không bay, chỉ có Tâm các người bay mà thôi!

“Vô tâm” mà Trần Nhân Tông nói đến cũng có nghĩa là “Tâm không bay”. Tâm mà “bay” thì hết thảy thế gian đảo lộn còn gì. Ngày xưa, chỉ có gió với phướng mà đã làm cho Tâm “bay” rồi, ngày nay danh lợi, quyền chức… ai mà biết được cái Tâm còn “bay” đến cỡ nào! Theo Kinh Hoa nghiêm, “nhất thiết duy tâm tạo” (hết thảy đều từ Tâm mà ra), có lẽ cũng chỉ nhằm nhắc nhở thiên hạ đừng để cái Tâm “bay” quá xa. Cho nên mùa Xuân của Trần Nhân Tông là mùa xuân “vô Tâm”:

Khi cung ma bị quản chặt,

Nước Phật sẽ tràn đầy mùa Xuân.

Ma cung hồn quản thậm,

Phật quốc bất thăng Xuân

(Đề Cổ Châu hương thôn tự)

“Cung ma” là cái Tâm làm cho “thật”, “giả” đảo lộn, nhìn gà hoá cuốc, Xuân chẳng ra Xuân mà Thu cũng chẳng ra Thu. Tâm không bịđảo lộn là Tâm trong trạng thái tinh thần tự do, tự tại, không bị ràng buộc bởi bên trong lẫn bên ngoài.

Câu chuyện về Thiền sư Thanh Nguyên tự thuật về cuộc đời tu hành đắc đạo của mình thường được nhiều người nhắc đến:

“Lão Tăng ba mươi năm trước đây, lúc chưa tham Thiền, nhìn núi là núi, nhìn sông là sông. Sau thời gian tu hành lại thấy sông không còn là sông, thấy núi không còn là núi nữa. Đến nay, qua thời gian dài tham Thiền lại nhìn thấy núi là núi, sông là sông ( Ngũ đăng hội nguyên).

Nhìn núi là núi, sông là sông là cái nhìn của người chưa đi tu, của người “thế gian” bình thường. Nhìn núi không phải núi, nhìn sông không phải sông là cái nhìn của nhà sư “xuất thế gian”. Tức là cái nhìn “nghịch” lại với đời thường, hay còn gọi là “tuyên chiến” với đời thường. Sau ba mươi năm tu hành thì trở lại như xưa, nhìn núi là núi nhìn sông là sông, nhưng sông và núi lúc bấy giờ khác xưa nhưng lại giống xưa. Nhà sư đã xem “nghịch cũng là thuận” (dĩ nghịch vi thuận). Có nghĩa là ung dung tự tại ngay trong cái “nghịch” đó. Trần Thánh Tông cũng diễn đạt ý đó trong bài Biểu hiện của chân Tâm(chân Tâm chi dụng):

Không to cũng không nhỏ,

Không thuận cũng không nghịch.

(Nhập đại, nhập tiểu,

Nhậm thuận, nhậm nghịch)

Mùa Xuân và mùa Thu của thi sĩ Thiền sư cũng là cái nhìn “dĩ nghịch vi thuận”. Xuân, Thu của Đất, Trời và Xuân, Thu của dân tộc cũng được nhìn theo nhãn quang đó:

Người đời có thịnh thì có suy,

Hoa kia có tươi thì có héo,

Quốc gia có hưng thì có vong

Thời thế có thái thì có bỉ,

Ngày có sớm thì có chiều,

Năm có trước thì có sau.

Nhân chi hữu thịnh hề hữu suy,

Chi hữu diễm hề hữu uỷ,

Quốc chi hữu hưng hề hữu vong,

Thì chi hữ thái hề hữu bỉ,

Nhật chi hữu mộ hề hữu triêu,

Niên chi hữu chung hề hữu thuỷ.

(Trừu thần ngâm,Trần Tung )

Hiểu được cái lẽ “vô thường” mới có thể “thường” trong cái “vô thường” đó. “Vô” là vì “tâm, cảnh vốn đều vô” (Tâm cảnh bản lai vô, Trì giới kiêm nhẫn nhục, Trần Tung). Không những vậy mà cái “vô” cũng là “vô”, cho nên ngai vàng tuy là quý nhưng cũng là “vô”, nó cũng chẳng khác gì chiếc dép rách. Ngai vàng tượng trưng cho quyền lực tối cao mà còn chẳng xem ra gì huống hồ những thứ gọi là công danh, phú quý (Công danh chẳng trọng, Phú quý chẳng màng, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca,Trần Nhân Tông).

Cái đáng quý ở ngay trong Tâm (Gia trung hữu bảo), không cần phải tìm đâu cả (hưu tầm mịch). Bởi vì “mọi người trên thế gian này ai cũng có Phật ở trong Tâm cả” (Tu tri thế hữu tâm trung Phật, Thượng Phúc Đường Tiêu Dao Thiền sư, Trần Tung). Trần Nhân Tông cho rằng trở thành thần, tiên là do tự bản thân mỗi người, ai cũng có khả năng đó cả:

Ai trói buộc đâu mà cứ cầu giải thoát,

Bản thân mình vốn không phải là phàm tục, cần gì phải đi tìm thần, tiên.

(Thuỳ phược cánh tương cầu giải thoát,

Bất phàm hà tất mịch thần tiên)

(Sơn Phòng mạn hứng)

Nên nhớ Phật không phải chỉ là giáo chủ, không sáng tạo ra ai cả và cũng không quyết định thể xác, tinh thần của ai. Mỗi người hãy tự đốt đuốc lên mà đi. Phải chăng giá trị tự do và bình đẳng của con người được tôn trọng, cho dù là từ bên trong? Tự do và bình đẳng không phải chỉ ở lý trí mà còn ở cái Tâm “nhân ái”:

Hết thảy sinh dân đều là đồng bào,

Nỡ nào lại để bốn bể lâm vào cảnh khó khăn.

(Sinh dân nhất thị ngã bào đồng,

Tứ hải hà tâm sử khốn cùng,)

(Nghệ An hành điện, Trần Minh Tông)

“Tông trọng”, “khoan dung” và “nhân ái” là ba từ đồng nghĩa ở thời Lý - Trần. Không có nó thì e rằng chẳng thể có Hội nghị DiênHồng, chẳng thể có Bến Bình Than, chẳng thể nào cả ba lần đều đánh bại đội quân xâm lược thiện chiến nhất thế giới lúc bấy giờ. Không có cái Tâm vô hình, vô tướng đó thì cũng không có thời kỳ Lý -Trần cực thịnh trong lịch sử xã hội phong kiến Việt Nam với biết bao tài năng xuất chúng mà người đời sau hết lời ca ngợi. Khi mà cái Tâm vô tướng, vô hình đó theo thời gian và theo con người chuyển sang mùa Thu và mùa Đông thì cũng là lúc triều đạiLý - Trần cũng cận kề “cáo chung” và chỉ còn biết “tiếc Xuân” mà thôi. Tiếc rằng từ Hồ Quý Ly và sau đó, cái gì cũng có nhưng chỉ thiếu mỗi cái Tâm mà thôi! (“Dân Tâm bất thuận” là điều mà Hồ NguyênTrừng lo lắng nhất, “Công Tâm” là chủ trương của Nguyễn Trãi lần đầu gặp Lê Lợi…).

Ở phương Tây, Platon mơ ước một xã hội mà nhà vua là nhà triết học, hoặc là nhà triết học học là nhà vua. Thời kỳ Lý - Trần ở Việt Nam không những nhà vua là nhà triết học, nhà triết học là nhà vua mà nhà vua vừa là nhà triết học vừa là đức Phật hay đức Phật vừa là nhà vua vừa là nhà triết học. Nói đến đức Phật là nói đến cái Tâm, cái “Tâm vô Tâm” (vô tâm tâm), không thuận mà cũng không nghịch, không nhỏ mà cũng không lớn, nhưng đủ để bao dung cả dân tộc, bao dung cả mùa xuân và mua thu của Đất - Trời.

Xem Thêm

Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam: Kiểm điểm, đánh giá chất lượng Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025
Ngày 12/12, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì Hội nghị. Tham dự có đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam cùng các đồng chí trong BCH Đảng bộ.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng dẫn đoàn Việt Nam tham dự Triển lãm quốc tế về Sáng tạo khoa học công nghệ (SIIF 2025) tại Seoul
Từ ngày 3-7/12, Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) được tổ chức tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Theo lời mời của Hiệp hội Xúc tiến sáng chế Hàn Quốc (KIPA), Quỹ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) đã thành lập đoàn tham gia Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) do TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam, Chủ tịch Quỹ VIFOTEC - làm trưởng đoàn.
Tìm giải pháp truyền thông đột phá cho phát triển khoa học công nghệ
Nghị quyết 57-NQ/TW xác định vị thế khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, trở thành quốc gia phát triển. Giới chuyên gia đưa ra lộ trình cụ thể giúp truyền thông chính sách thành hành động, từ xây dựng tòa soạn thông minh đến phát triển hệ sinh thái nội dung số.
Liên hiệp Hội Việt Nam tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ
Chiều ngày 09/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức buổi tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ. Đây là hoạt động tiếp nối tinh thần của Lễ phát động ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên do Liên hiệp Hội Việt Nam tổ chức vào ngày 24/11 vừa qua.
Trí thức Việt Nam đồng hành cùng tương lai Xanh
Đội ngũ trí thức Việt Nam luôn đóng vai trò then chốt với những đóng góp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, tư vấn chính sách và truyền cảm hứng cộng đồng. Những chuyển động mạnh mẽ về khoa học môi trường, năng lượng sạch, kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh trong thời gian qua có dấu ấn đậm nét của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước ta…
Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Sáng ngày 05/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Nữ trí thức Việt Nam (VAFIW) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo”.
Các nhà khoa học giao lưu, thuyết giảng tại trường đại học
Từ trí tuệ nhân tạo (AI), vật liệu bán dẫn hữu cơ, công nghệ y học đến biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học… những buổi trò chuyện không chỉ mở rộng tri thức chuyên sâu mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ về hành trình chinh phục khoa học cho hàng nghìn sinh viên và giảng viên cả nước.