Ngày xuân tản mạn Xuân – Thu trong thơ Thiền thời Lý - Trần
Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà sách Thánh đăng lụclại ghi chép về sự tích của năm vị vua – năm vị Thiền sư đời Trần. Đó là Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Năm vị Thiền sư thi sĩ này ai cũng làm thơ và ai cũng có thơ Xuân. Thi sĩ nào mà chẳng có thơ Xuân? Mùa xuân là mùa của đất trời, của nong sông, của vạn vật… Có ai sống trên đời lại thờ ơ trước xuân đến và dửng dưng trước xuân đi, huống hồ là thi sĩ? Vậy thiên hạ thường “vui Xuân” chứ ít ai lại đi “buồn Xuân” bao giờ? Tuy vậy, đôi khi đó, đây cũng không tránh khỏi cái gọi là “Xuân sầu”. Nhưng tìm khắp trong thơ của các vị Thiền sư thì chẳng thấy “Xuân sầu” nào cả. “Thu” còn chưa sầu, làm sao mà “sầu” Xuân được! Thi nhân Trung Quốc thường “sầu” về mùa thu là đúng thôi. Thời tiết ôn đới lạnh lẽo, lá vàng rơi rụng để rồi chơ vơ, trơ trụi ở mùa đông băng tuyết, ai mà chẳng sầu? Trong chữ Hán chữ “sầu”, bên trên là chữ “Thu” dưới là chữ “Tâm” có nghĩa là tâm trạng mùa thu. Mùa thu là mùa lúa, mùa gặt hái. Gặt hái xong nhưng lại lo mùa đông đến trồng trọt không được, sinh sống khó khăn cho nên ‘sầu’ là phải. Cảm giác “sầu” về mùa thu ở xứ lạnh hoá ra lại cũng chẳng khác nhau lắm. Ở Nga cũng lạnh lắm cho nên “sầu” cũng liên quan đến mùa thu, khi người ta sầu đương nhiên bộ mặt trông thật thiểu não, cho nên ở Nga bộ mặt “sầu” được gọi là “bộ mặt tháng Chín” (Tháng Chín thuộc về mùa thu). Chẳng phải là ngôn ngữ biểu đạt tình cảm của nhân loại giống nhau ở chỗ cùng phụ thuộc vào diễn biến của tự nhiên, của thời tiết đó sao? Chữ “Xuân” trong chữ Hán cổ cũng được cấu tạo theo cách đó. Chữ “Xuân” gồm có bộ “Thảo” (thực vật), chữ “Đồn” có nghĩa là mọc, sinh trưởng và chữ “Nhật” là mặt trời. Có nghĩa là mùa mà cây cỏ sinh sôi nẩy nở dưới ánh mặt trời. Mùa xuân chim én lượn, chim én khi ăn hay nuốt làm cho cổ phình ra. Người Trung Quốc gọi chim én là “yen zi” và động tác “nuốt” cũng gọi là “yen”. Tiếng Anh, chim én được gọi là “swallow” và nuốt cũng gọi là “swallow”. Vậy là ngôn ngữ của nhân loại ít nhiều cũng gặp nhau trong tương quan với môi trường sống ( xem: Hệ thống khoa học Hán tự An Tử Giới).
Còn ở xứ nhiệt đới, mùa đông tuy lá rụng ít nhiều, nhưng đã “ăn thua” gì đâu, cây cỏ vẫn vậy, chẳng thay đổi gì nhiều, huống hồ là mùa thu. Mùa thu lá cũng vàng, trời cũng lành lạnh, nhưng có vẻ trầm lắng hơn là buồn. Ao thu tuy “lạnh lẽo” nhưng nước thì “trong veo”, cho dù khách có “vắng teo” đi nữa thì không gian bao la làm cho “thu sắc” tĩnh mịch hơn là đượm buồn. Cho dù thi sĩ trước cảnh “vàng rơi thu mênh mông” thì cũng chỉ “buồn vương” cây ngô đồng, nghĩa là buồn “man mác” thôi chứ không đến nỗi sầu bi.
Nói chung, cảnh vật như thế nào thì người như thế ấy. Nhưng nếu chỉ như vậy thì đâu phải là nhà thơ. Nhà thơ mượn cảnh để tả tình, tình thường vẽ nên cảnh hơn là cảnh vẽ nên tình. Cho nên “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Đó là thi sĩ người trần mắt thịt ở chốn “thế gian”, còn thi sĩ Thiền sư “xuất thế gian” thì không phải như vậy. Không biết nên gọi Trần Nhân Tông là thi nhân “thế gian” hay “xuất thế gian”? Ở đâu thì không biết, chứ thi sĩ Trần Nhân Tông tác giả của bài Cư trần đạo phúlàm sao có thể cho là thi sĩ “thế gian” được? Chỉ bốn câu thôi cũng có thể diễn đạt tinh thần của đạo Phật cũng như nhân sinh quan của tác giả:
Sống ở đời vui với đạo tuỳ theo đời,
Đói thì ăn, buồn ngủ thi đi ngủ,
Trong nhà có vật quý cần gì phải đi tìm ở đâu,
Đứng trước cảnh vật mà vô tâm thì cần gì phải nói đến Thiền.
(Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên,
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền).
( Cư trần lạc đạo phú)
Thiền sư thi nhân “xuất thế gian” như Trần Nhân Tông chẳng hạn, làm sao mà vui buồn theo cảnh vật bên ngoài được, hoặc bắt cảnh vật bên ngoài phải vui buồn theo mình được. Bốn chữ “đối cảnh vô tâm” đã nói đầy đủ điều đó rồi. Nhưng thi sĩ mà “vô tâm”, chẳng chút rung động gì trước cảnh Xuân đến, Thu đi thì sao gọi là thi sĩ? Thi sĩ Trần Nhân Tông có lẽ vừa là thi sĩ vừa là “siêu” thi sĩ. Còn nhớ Lục Tổ Huệ Năng đã cảnh cáo đệ tử vì đã để cho cái Tâm bị “bay”. Hai đệ tử cãi nhau, một bên cho là phướng bay, một bên lại cho là gió bay, không bên nào chịu bên nào. Hai đệ tử bèn nhờ Lục Tổ giải đáp. Lục Tổ phán rằng gió không bay mà phướng cũng không bay, chỉ có Tâm các người bay mà thôi!
“Vô tâm” mà Trần Nhân Tông nói đến cũng có nghĩa là “Tâm không bay”. Tâm mà “bay” thì hết thảy thế gian đảo lộn còn gì. Ngày xưa, chỉ có gió với phướng mà đã làm cho Tâm “bay” rồi, ngày nay danh lợi, quyền chức… ai mà biết được cái Tâm còn “bay” đến cỡ nào! Theo Kinh Hoa nghiêm, “nhất thiết duy tâm tạo” (hết thảy đều từ Tâm mà ra), có lẽ cũng chỉ nhằm nhắc nhở thiên hạ đừng để cái Tâm “bay” quá xa. Cho nên mùa Xuân của Trần Nhân Tông là mùa xuân “vô Tâm”:
Khi cung ma bị quản chặt,
Nước Phật sẽ tràn đầy mùa Xuân.
Ma cung hồn quản thậm,
Phật quốc bất thăng Xuân
(Đề Cổ Châu hương thôn tự)
![]() |
Câu chuyện về Thiền sư Thanh Nguyên tự thuật về cuộc đời tu hành đắc đạo của mình thường được nhiều người nhắc đến:
“Lão Tăng ba mươi năm trước đây, lúc chưa tham Thiền, nhìn núi là núi, nhìn sông là sông. Sau thời gian tu hành lại thấy sông không còn là sông, thấy núi không còn là núi nữa. Đến nay, qua thời gian dài tham Thiền lại nhìn thấy núi là núi, sông là sông ( Ngũ đăng hội nguyên).
Nhìn núi là núi, sông là sông là cái nhìn của người chưa đi tu, của người “thế gian” bình thường. Nhìn núi không phải núi, nhìn sông không phải sông là cái nhìn của nhà sư “xuất thế gian”. Tức là cái nhìn “nghịch” lại với đời thường, hay còn gọi là “tuyên chiến” với đời thường. Sau ba mươi năm tu hành thì trở lại như xưa, nhìn núi là núi nhìn sông là sông, nhưng sông và núi lúc bấy giờ khác xưa nhưng lại giống xưa. Nhà sư đã xem “nghịch cũng là thuận” (dĩ nghịch vi thuận). Có nghĩa là ung dung tự tại ngay trong cái “nghịch” đó. Trần Thánh Tông cũng diễn đạt ý đó trong bài Biểu hiện của chân Tâm(chân Tâm chi dụng):
Không to cũng không nhỏ,
Không thuận cũng không nghịch.
(Nhập đại, nhập tiểu,
Nhậm thuận, nhậm nghịch)
Mùa Xuân và mùa Thu của thi sĩ Thiền sư cũng là cái nhìn “dĩ nghịch vi thuận”. Xuân, Thu của Đất, Trời và Xuân, Thu của dân tộc cũng được nhìn theo nhãn quang đó:
Người đời có thịnh thì có suy,
Hoa kia có tươi thì có héo,
Quốc gia có hưng thì có vong
Thời thế có thái thì có bỉ,
Ngày có sớm thì có chiều,
Năm có trước thì có sau.
Nhân chi hữu thịnh hề hữu suy,
Chi hữu diễm hề hữu uỷ,
Quốc chi hữu hưng hề hữu vong,
Thì chi hữ thái hề hữu bỉ,
Nhật chi hữu mộ hề hữu triêu,
Niên chi hữu chung hề hữu thuỷ.
(Trừu thần ngâm,Trần Tung )
Hiểu được cái lẽ “vô thường” mới có thể “thường” trong cái “vô thường” đó. “Vô” là vì “tâm, cảnh vốn đều vô” (Tâm cảnh bản lai vô, Trì giới kiêm nhẫn nhục, Trần Tung). Không những vậy mà cái “vô” cũng là “vô”, cho nên ngai vàng tuy là quý nhưng cũng là “vô”, nó cũng chẳng khác gì chiếc dép rách. Ngai vàng tượng trưng cho quyền lực tối cao mà còn chẳng xem ra gì huống hồ những thứ gọi là công danh, phú quý (Công danh chẳng trọng, Phú quý chẳng màng, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca,Trần Nhân Tông).
Cái đáng quý ở ngay trong Tâm (Gia trung hữu bảo), không cần phải tìm đâu cả (hưu tầm mịch). Bởi vì “mọi người trên thế gian này ai cũng có Phật ở trong Tâm cả” (Tu tri thế hữu tâm trung Phật, Thượng Phúc Đường Tiêu Dao Thiền sư, Trần Tung). Trần Nhân Tông cho rằng trở thành thần, tiên là do tự bản thân mỗi người, ai cũng có khả năng đó cả:
Ai trói buộc đâu mà cứ cầu giải thoát,
Bản thân mình vốn không phải là phàm tục, cần gì phải đi tìm thần, tiên.
(Thuỳ phược cánh tương cầu giải thoát,
Bất phàm hà tất mịch thần tiên)
(Sơn Phòng mạn hứng)
Nên nhớ Phật không phải chỉ là giáo chủ, không sáng tạo ra ai cả và cũng không quyết định thể xác, tinh thần của ai. Mỗi người hãy tự đốt đuốc lên mà đi. Phải chăng giá trị tự do và bình đẳng của con người được tôn trọng, cho dù là từ bên trong? Tự do và bình đẳng không phải chỉ ở lý trí mà còn ở cái Tâm “nhân ái”:
Hết thảy sinh dân đều là đồng bào,
Nỡ nào lại để bốn bể lâm vào cảnh khó khăn.
(Sinh dân nhất thị ngã bào đồng,
Tứ hải hà tâm sử khốn cùng,)
(Nghệ An hành điện, Trần Minh Tông)
![]() |
Ở phương Tây, Platon mơ ước một xã hội mà nhà vua là nhà triết học, hoặc là nhà triết học học là nhà vua. Thời kỳ Lý - Trần ở Việt Nam không những nhà vua là nhà triết học, nhà triết học là nhà vua mà nhà vua vừa là nhà triết học vừa là đức Phật hay đức Phật vừa là nhà vua vừa là nhà triết học. Nói đến đức Phật là nói đến cái Tâm, cái “Tâm vô Tâm” (vô tâm tâm), không thuận mà cũng không nghịch, không nhỏ mà cũng không lớn, nhưng đủ để bao dung cả dân tộc, bao dung cả mùa xuân và mua thu của Đất - Trời.