Nét đẹp riêng trong lễ hội 2 đền Đồng Cổ
Nhà vua đã lập nơi thờ Thánh Gióng, thờ Huyền Thiên Trấn Vũ và chuyển chùa Khai Quốc từ phường Yên Hoà vào trong bán đảo Hồ Tây, coi chùa Khai Quốc là trung tâm Phật giáo của kinh thành. Với các thần nhân, nhà vua rất chú ý nghe theo lời chỉ dẫn như: nghe lời tâu xin của Lý Phục Man mà cho tạc tượng, dựng đền thờ ở Yên Sở… Truyền thuyết dân gian làng Nguyên Xá, xã Minh Khai, huyện Từ Liêm cũng kể rằng: Khi xa giá, nhà vua đi ngắm núi sông, đến vùng Vân Canh thì voi không chịu đi, cắm vòi xuống đất. Vua cho sứ giả đi xem khắp vùng, thấy ở làng Nguyên Xá, có ngôi miếu nhỏ thờ Đồng Cổ Sơn thần. Đó là ngôi miếu do nghĩa quân Thanh Hoá lập nên khi họ từ Thanh Hoá rủ nhau theo nghĩa binh của Hai Bà Trưng đánh quân Hán. Sau 3 nam giành tự chủ, nghĩa quân bị nhà Hán dẹp, Hai Bà Trưng tử tiết, một số người lẩn trốn về Nguyên Xá, lập miếu thờ vị thần quê hương. Nhà vua đến chiêm bái, sau đó công việc đi ngắm núi sông đều thuận lợi. Đền Đồng Cổ ở Thăng Long xuất hiện trong lịch sử từ bấy giờ.
Mùa đông năm Canh Thân, niên hiệu Thuận Thiên 11 (1020), Lý Thái Tổ sai con là Thái tử Khai Thiên vương Lý Phật Mã đem quân đánh giặc phía Nam. Về việc này, sách Việt điện u linhtrong truyện: “Thiên hạ minh chủ linh ứng chiêu cảm Bảo hựu Đại vương” chép thêm: “Khi Thái tử phụng mạng đem quân đi đánh Chiêm Thành, đến chân núi Khả Phong thuộc Trường Châu nghỉ lại. Đêm ấy có một dị nhân hiện lên, tự xưng là Đồng Cổ Sơn thần tình nguyện xin theo giúp. Thái tử vỗ tay khen ngợi, hôm sau tiến quân quả nhiên thắng trận. Khi khải hoàn, Thái tử về Khả Phong làm lễ tạ, xin rước thần vị về thờ ở kinh đô. Đang lúc chọn chỗ thì Đồng Cồ Sơn thần lại báo mộng xin được về ở phía tây thành Thăng Long (nay vị trí ngôi đền Nguyên Xá, đúng là ở về phía tây thành Thăng Long).
Việc một vị thần “ngầm giúp” nhà Lý, thành mối giao kết nên hàng năm đi lại làm lễ đã thành lệ của triều đình. Có thờ có thiêng, xuất xứ tình cảm gắn bó giữa Lý Phật Mã với Đồng Cổ Sơn thần nên thần lại giúp Lý Phật Mã lần nữa. Đó là việc Lý Thánh Tông cùng các tướng dẹp loạn Tam vương.
Về việc này, Đại Việt sử ký toàn thưquyển II kỷ nhà Lý chép rằng: “Trước khi ba vương làm phản một ngày, vua (Lý Thái Tông) chiêm bao thấy một người tự xưng là thần núi Đồng Cổ nói với vua về việc ba vương em là Vũ Đức, Đông Chinh, Dực Thánh làm loạn, nên bảo đem quân đánh ngay đi”. Vua sai phòng bị quả nhiên ứng nghiệm. Đến đây chiếu cho Hữu ti dựng miếu ở bên hữu thành Đại La, liều sau chùa Thánh Thọ, lấy ngày 25/3 đắp đàn cắm cờ xí, dàn đội ngũ treo gươm giáo ở trước thần vị Thiên hạ Minh chủ Đại vương, các quan từ cửa đông đi vào đến trước thần vị đọc lời thề rằng: “Vi tử bất hiếu, vi thần bất trung, thần minh tử chi” (Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, thần minh giết chết”. Với đoạn sử liệu trên, chúng ta có 2 thông tin: Từ năm Thiên Thành (1028) đã có thêm một đền Đồng Cổ ở bên hữu thành Đại La (tức làng An Đông phường Bười ngày nay) và lời thề có thêm câu “Vi tử bất hiếu”.
Trở lại đền Đồng Cổ ở Nguyên Xá, chúng ta thấy ngay tại Chủ minh đàn có 2 dòng lời thề:
Đồng Cổ chủ minh đại thiên sinh sát
Vi thần bất trung thần nhân cức chi
![]() |
| Lời thề ở đền Đồng Cổ “Vi thần bất trung- thần nhân cức chi” (Làm tôi bất trung - thần và người giết đi) |
“Thần Đồng Cổ chứng minh lời thề, thay trời sinh sát (nếu) làm tôi mà bất trung, xin thần và người xử tội chết”. Lý do câu thề ở đây còn thiếu vế “Vi tử bất hiếu” vì đền Đồng Cổ ở Nguyên Xá, nơi Thái tử Phật Mã và Đồng Cổ Sơn thần quan hệ với nhau trên cơ sở lòng “trung với vua, với nước”.
Đến khi được nối ngôi vua cha, trước việc 3 vương em mưu phản trái với nghĩa tôi con, bất hiếu bất trung, thì vua Lý Thái Tông hiểu sâu sắc ý nghĩa của chữ hiếu, vì thế lời thề trọn vẹn mà các các cùng thề là “Vi tử bất hiếu, vi thần bất trung, thần minh tử chi”.
Nét riêng của hai đền Đồng Cổ xuất phát từ lời thề và trình tự tổ chức nghi lễ. Tại đền Nguyên Xá, khi đó Lý Phật Mã mới là Thái tử, việc hàng năm đi lại tế lễ dù có trang trọng cũng không thể vượt quá ngưỡng và luật lệ triều đình quy định. Nhưng khi Lý Phật Mã đã thành Lý Thánh Tông, đi đâu làm gì cũng đều phải sử sụng nghi lễ nhà vua. Chính vì lẽ đó mà triều đình đã chọn một nơi ngay bên thành Đại La để thực hiện việc: “phong tước vương cho thần núi Đồng Cổ, dựng miếu để tuế thời cúng tế và làm lễ thề”. Cái lý do mà dân gian Nguyên Xá nói rằng: “Hội thề ban đầu làm ở đây, sau vì xa quá, vua quan đi lại nhiêu khê nên mới đưa về vùng Bưởi cho gần” là còn chưa giải thích rõ tâm lý của Lý Thái Tông và quy cách nghi lễ mà triều đình đã áp dụng.
Cũng trên sự phân nhánh ấy mà lễ hội hiện nay của 2 đền có khác nhau: xin lược kể 2 phần lễ hội đó để cùng phân biệt: Tại đình An Đông, hàng năm vào ngày 404 thường tổ chức Hội thề Trung Hiếu với nghi lễ: trước khi vào phần lễ truyền thống (tế) người dân có mặt tại đền đều trang nghiêm nghe vị chủ lễ đọc lời thề, dứt câu, mọi người giơ tay xin thề trong âm vang của tiếng chiêng, tiếng trống. Lời thề có sự thay đổi theo mục đích chính trị mà xã hội cần vươn tới. Năm 2000, mọi người thề với nhau như sau: “Xin thề trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng làm mọi nhiệm vụ để cùng nhau xây dựng Thăng Long – Hà Nội ngày càng hiện đại, xứng đáng thành phố 1.000 năm tuổi”. Mặc dù có tế, có rước nhưng nghi lễ có tính “chuyên môn” phần hội dân gian thường vắng bóng và buổi lễ nặng về phần tín ngưỡng của nhân dân trong vùng.
Tại đền Nguyên Xá: ngày lễ là sự tập hợp giao lưu giữa các làng thuộc Từ Liêm, Hoài Đức, và Đan Phượng. Làng nào cũng cử đội dâng hương đến lễ đông vui nên họ kiên nhẫn chờ đến lượt vào lễ, đồng thời tranh thủ hỏi thăm nhau. Các cụ giải thích: Nguyên Xá là làng cổ, có quan hệ với nhiều làng trong tổng, trong huyện Hoài Đức nên sự kết dính rất cao. Về hội thề, chỉ bố trí bầy Chù minh đàn với lời đã dẫn, người dân tự do làm lễ xin thần chứng giám, không có nghi lễ thề tập thể. Người dân các nơi đến làm lễ và chơi hội đều cảm nhận được không khí văn nghệ dân gian do các trò vui đưa lại. Đây là một vùng đa văn hóa, nên sự giao lưu giữa các làng có nhiều. Hội có mọi trò vui, đấu vật, cờ người là những trò hấp dẫn nhất. Cái ý nghĩa “Thề trung hiếu” không áp dụng ở đây, mà tự lòng người đi đến trước Chủ minh đàn (đàn thề) tự vấn tâm mà xin thần soi xét.
Kể lại những khác biệt của 2 đền Đồng Cổ, tôi muốn nói rõ nét riêng của từng nơi, và cũng từ sự khác biệt đó, mỗi nơi đều có cách đi, cách tổ chức lễ hội riêng, không ai có thể nói nơi nào là quan trọng hơn nơi nào. Suy cho cùng, mọi người Việt đều chung một tâm trạng: đến với lễ hội để hướng tâm linh về một điểm, giải toả những nỗi lòng trong không khí náo nức của hội.
Về Nguyên Xá dự lễ hội, mọi người đều vui trước những công trình mới được phục hưng: cổng làng và đình làng. Cổng làng Nguyên Xá không theo lệ thường đề tên làng mà đề 3 chữ “Nguyên Giả Trưởng” cùng đôi câu đối ca ngợi cảnh làng quê. Giải thích về câu “Nguyên Giả Trưởng”, các cụ nói rằng: Từ Nguyên là một từ trong quẻ Dịch: câu Nguyên hanh lợi trinh. Lại cũng có chữ “Nguyên giả thiện chi trưởng giã” nên “Nguyên Giả Trưởng” là chỉ vị trí của làng so với làng bên. Cũng có câu giải thích rằng 3 nơi thờ thần Đồng Cổ của xã Phú Diễn tổng Cổ Nhuế xưa là: Nguyên Xá, Văn Trì, Ngoạ Long thì Nguyên Xá là nơi đầu tiên mở hội hàng năm.
Nguồn: Dân tộc & Thời đại, số 77, 4/2005, tr 14, 15









