Một số vấn đề nghiên cứu khai thác mỏ than Bình Minh - Khoái Châu - Hưng Yên thuộc bể tham đồng bằng sông Hồng
Để đạt được mục tiêu này, ngành than sẽ đầu tư mở rộng công suất các mở hiện đang hoạt động và xây dựng một số mỏ than mới, trong đó mỏ than Bình Minh - Khoái Châu - Hưng Yên thuộc bể than đồng bằng sông Hồng. Dự kiến sản lượng than khai thác từ mỏ này sẽ được huy động vào kế hoạch từ năm 2015 với công suất ban đầu 900.000 - 1.000.000 tấn/năm vào các năm 2015 - 2017 và sẽ đạt sản lượng 7.500.000 tấn vào năm 2025. Khoáng sàng than đồng bằng sông Hồng là một bể than rất lớn, có trữ lượng tới hàng tỷ tấn than nâu chất lượng tốt với những đặc điểm điều kiện địa chất vô cùng phức tạp [1, 2, 3, 4]. Những thông tin tài liệu thu được trong quá trình tìm kiếm thăm dò địa chất trong nhiều thập niên vừa qua còn quá thô sơ bộ và ít ỏi để có thể tiến hành đầu tư.
Nghiên cứu đánh giá khả năng khai thác khu mỏ Bình Minh – Khoái Châu cho thấy có thể xem xét ba phương pháp chính gồm:
- Phương pháp khí hoá than ngầm trong lòng đất;
- Phương pháp khai thác lộ thiên;
- Phương pháp khai thác hầm lò.
Khí hoà than ngầm (KHTN)dưới lòng đất là quá trình đốt than ngay trong vỉa làm biến đổi thành phần hữu cơ của than thành các loại khí cháy, khí tổng hợp hoá học dưới tác dụng của tác nhân khí ôxy không khí, hơi nước (H 2O), CO 2hoặc hỗn hợp của các khí này. Khí thu được có thể sử dụng như nhiên liệu để sản xuất điện, sản xuất gốm sứ, vật liệu xây dựng, đốt các nồi hơi công nghiệp hoặc cho công nghiệp hoá chất.
Bản chất quá trình công nghệ khí hoá than ngầm gồm các công đoạn chính như sau:
1. Khoan các lỗ khoan thẳng đứng, nghiêng hoặc ngang nghiêng từ trên mặt đất đến vỉa than để thổi nén không khí vào đốt vỉa và dẫn hút khí than lên mặt đất sau khi khí hoá.
2. Tạo ra trong vỉa than các đường lò nối giữa các lỗ khoan với nhau (được gọi là lò phản ứng hoá khí).
3. Khí hoá vỉa than, tức là đốt than trong lò phản ứng hoá khí bằng phương pháp thổi nén không khí vào vỉa và hút khí than qua các lỗ khoan.
Phân tích kết quả thử nghiệm công nghiệp phương pháp KHTN trong lòng đất ở một số nước trên thế giới có thể thấy cho tới thời điểm hiện nay có một số vấn đề kỹ thuật chưa giải quyết được một cách triệt để như:
- Vấn đề nối thông các lỗ khoan để tạo ra lò phản ứng khí hoà than trong vỉa.
- Chưa giải quyết được vấn đề sập đổ đá vách sau khi than được khí hoá và nước chảy vào tổ hợp lò khí hoá than
- Chưa kiểm soát được quá trình dịch chuyển vị trí của lò đốt than trong vỉa.
- Trên bề mặt đất: phải bố trí số lượng lớn các lỗ khoan, tiếng ồn của các máy nén khí, ô nhiễm nước ngầm, làm nóng bề mặt, sụt lún bề mặt khi độ sâu khí hoá không lớn, cũng như khí thoát ra ngoài mặt đất gây ô nhiễm không khí…
- Phải tiến hành một khối lượng đo đạc kiểm soát rất lớn: đo lưu lượng nước, phân tích nước, kiểm soát các phá huỷ địa chất, kiểm soát độ thẩm thấu của vỉa than và đá vách, đo nhiệt độ gần khu vực cháy than, đo lượng khí trong khu vực cháy than, xác định khối lượng than cháy và còn lại trong lòng đất…
- Nhiệt lượng của khí cháy còn thấp.
- Tổn thất than trong lòng đất lớn và khó kiểm soát.
Phương pháp KHTN trong lòng đất có những ưu việt nhất định:
- Về mặt kinh tế: có thể đưa vào khai thác các khu vực trữ lượng ngoài bảng cân đối khi mà khai thác bằng các phương pháp truyền thống khác như hầm lò, lộ thiên – không hiệu quả. Đầu tư cho công nghệ KHTN thấp hơn đến 2,5 lần so với các phương pháp công nghệ khác, trong khi đó các chỉ tiêu kinh tế lĩ thuật cao hơn 2 – 3 lần.
- Về môi trường: khi tiến hành khí hoá than ở độ sâu lớn có thể loại trừ việc sinh khí và bụi trong quá trình khai thác, giảm ô nhiễm môi trường. Khi sử dụng khí để phát điện giảm ô nhiễm không khí do sản phẩm cháy không chứa chất bụi rắn và khí CO.
- Về xã hội: KHTN là phương pháp khai thác than không có người trong khu vực khai thác, loại trừ các nguy hiểm đối với con người trong khai thác mỏ than. Các điều kiện làm việc được cải thiện nhiều so với khai thác bằng công nghệ truyền thống.
Nhìn chung phương pháp KHTN được xem là có hiệu quả kinh tế trong những điều kiện nhất định, đặc biệt là khi KHTN ở độ sâu rất lớn (> 1500m) và ở những khu vực khoáng sàng than mà khi áp dụng các công nghệ truyền thống khác không có hiệu quả. Kinh nghiệm cho thấy, khi ở độ sâu không lớn (300 – 500 m), áp dụng KHTN không hiệu quả do mặt đất bị phá huỷ, sụt lún, dẫn đến khí thoát ra theo các vết nứt làm giảm hiệu suất thu hồi khí sau khi than được đốt cháy trong lò. Ngoài ra, KHTN cũng không hiệu quả khi chiều dày vỉa nhỏ hơn 1,5 m và lớn hơn 3,0 m.
Từ những vấn đề nêu trên thấy rằng, đối với điều kiện khu mỏ Bình Minh, khả năng áp dụng phương pháp công nghệ KHTN là không có triển vọng do những lý do sau:
- Vỉa than thường là dày và rất dày.
- Khoáng sàng than thuộc loại ngậm nước lớn, chưa sáng tỏ vấn đề nước chảy vào vỉa do ảnh hưởng của nước ngầm và nước mặt. Các lớp ngăn cách nước chưa được xác định chính xác trong các tài liệu địa chất, theo kinh nghiệm đối với khoáng sàng ngậm nước, công nghệ này không hiệu quả.
- Phần trữ lượng nằm ở độ sâu < 300 – 500 , chủ yếu tập trung ở các vỉa dày V3, V4 không thể áp dụng phương pháp KHTN vì gây sụt lún, phá huỷ bề mặt, không khống chế được nước chảy vào lò.
- Sử dụng phương pháp KHTN đòi hỏi phải bố trí một hệ thống lỗ khoan dày đặc trên bề mặt canh tác hoặc có các đối tượng cần phải bảo vệ khác,
Với phương pháp khai thác lộ thiêncần thiết phải bốc một khối lượng lớn đất đá rất lớn bao gồm toàn bộ lớp đất phủ trầm tích Đệ tứ dày 120 m và các lớp đất đá thuộc trầm tích. Dự tính hệ số bóc đất đá lên tới trên 20 m 3/tấn, đồng thời làm phá vỡ toàn bộ bề mặt đất trên diện tích rất rộng là đất đai nông nghiệp, hệ thống công trình công nghiệp và dân dụng, đường giao thông… từ đó nảy sinh các vấn đề môi sinh, môi trường, xã hội. Mặt khác các vấn đề kỹ thuật như bảo vệ tầng chứa nước có liên quan đến nước sông Hồng, bảo vệ bờ mỏ là các lớp nham thạch mềm yếu, ngậm nước và có lưu lượng nước ngầm lớn… đòi hỏi phải có những giải pháp kỹ thuật đặc biệt và chi phí rất tốn kém. Vì vậy phương pháp khai thác lộ thiên không khả thi cả về mặt kỹ thuật, kinh tế, bảo vệ môi sinh, môi trường, xã hội.
Phương pháp khai thác hầm mỏcó triển vọng nhất có thể áp dụng để khai thác khu mỏ Bình Minh. Mặc dù có nhiều vấn đề còn phải tiếp tục nghiên cứu và giải quyết nhưng ở giai đoạn mức độ thăm dò địa chất như hiện nay có thể thấy một số vấn đề chắc chắn sẽ cần có các giải pháp kỹ thuật đặc biệt đó là:
- Khai thác bằng phương pháp hầm lò cùng với các giải pháp công nghệ bảo vệ toàn bộ các công trình và đối tượng trên mặt đất, đảm bảo canh tác nông nghiệp bình thường như hiện tại.
- Khai thác bằng phương pháp hầm lò với các giải pháp công nghệ bảo vệ những công trình chính (nhà cao tầng, bệnh viện, trường học, đường cao thế…), thay đổi tạm thời mục đích canh tác nông nghiệp (ví dụ chuyển trồng lúa sang hoa mầu hoặc các loại khác), phục hồi đất đai về nguyên trạng sau khi khai thác và tái canh tác các loại nông sản truyền thống…
Tại giai đoạn nghiên cứu ban đầu cần xác định trước trị số dịch chuyển và biến dạng cho phép đối với bề mặt đất, đảm bảo không gây hư hại, phá huỷ các công trình trên bề mặt, từ đó xác định ngược lại chiều dày khai thác cho phép và các thông số công nghệ phù hợp (chiều dài lò chợ, tốc độ khai thác, phương pháp điều khiển đá vách…). Đối với đồng ruộng canh tác lúa, hoa mầu, cây ăn quả… có thể xuất phát từ điều kiện độ lún bề mặt đất (độ sâu munđa dịch chuyển) không được lớn hơn độ sâu mực nước ngầm thuỷ tĩnh để đảm bảo không gây ra hiện tượng ngập úng sau khi khai thác.
Các trị số dịch chuyển, biến dạng cho phép đối với từng loại công trình bề mặt cần được xác định bằng nghiêm cứu quan trắc dịch động và biến dạng bề mặt địa hình cụ thể trong quá trình khai thác, bằng các nghiên cứu mô hình vật liệu tương đương, phương pháp mô hình số… Trong điều kiện khu mỏ Bình Minh chưa có công trình mỏ, để phục vụ cho công tác lập thiết kế xây dựng, khai thác cần lựa chọn các khoáng sàng than có điều kiện mỏ địa chất tương tự ở nước ngoài để sử dụng kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm sẵn có làm cơ sở tính toán, giải quyết các vấn đề công nghệ khai thác, đào lò, bảo vệ các công trình trên mặt đất…
Kết quả tính toán sơ bộ độ lún và biến dạng mặt đất trong trường hợp khai thác hầm lò với phương pháp chèn lò có thể sơ bộ kết luận:
- Đối với hệ thống kênh mương đào, độ nghiênge< 3 mm/m, đối với kênh mương kết cấu bê tông, biến dạng ngange< 1 mm/m; đối với công trình bệnh viện, trường họce< 1 mm/m, đối với nhà ởe< 3 – 5 mm/m.
- Để hạn chế độ lún bề mặt đất < 1,5 m và đảm bảo biến dạng dứng và ngang nhỏ hơn trị số giới hạn cho phép, cần khai thác với phương pháp chèn cát bằng thuỷ lực, chiều dày khấu đến 3,0 m, chiều dài lò chợ 80 – 100 m ở độ sâu khai thác 150 m, chiều dài lò chợ 150 m ở độ sâu khai thác 500 m. Khi đó độ nghiêng đáy munđa dịch chuyển giảm từ 5,2 mm/m xuống 2,5 mm/m, biến dạng ngang của đáy munđa dịch chuyển giảm từ 4 mm/m xuống 2 mm/m, độ lún bề mặt địa hình (độ sâu munđa dịch chuyển) cực đại 600 mm.
- Đối với các toà nhà cao tầng, bệnh viện, trường học, công sở cần đề lại các trụ than bảo vệ; đối với hệ thống kênh, mương, máng mương, kết cấu bê tông có thể áp dụng các biện pháp kỹ thuật gia cố kết cấu khi xây dựng, hoặc để lại trụ bảo vệ.
- Để đáp ứng điều kiện độ lún địa hình không được lớn hơn độ sâu mực nước ngầm thuỷ tĩnh, có thể tiến hành khai thác 2 lớp, với tổng chiều dày 6,0 m bằng phương pháp chèn lò thuỷ lực, khi đó độ lún cực đại là 1200 mm, nhỏ hơn độ sâu dưới mặt đất của mực nước ngầm thuỷ tĩnh là 1500 mm và có thể khai thác được khoảng 90 – 110 triệu tấn than ở khu vực Bình Minh. Với nghiên cứu chi tiết tỷ mỉ hơn, ở một số khu vực có thể xem xét khấu 3 – 4 lớp tổng chiều dày khai thác đến 9 10 m hoặc lớn hơn, các số liệu này cần được chính xác hoá ở giai đoạn nghiên cứu tiếp theo.
Khi khai thác hầm lò với phương pháp phá hoả toàn phần, các thông số dịch chuyển như sau: độ sâu munđa dịch chuyển»8,0 m; độ nghiêng địa hình trong phạm vi munđa dịch chuyển theo hướng vuông góc phương vỉa»51 mm/m; độ nghiêng địa hình trong phạm vi munđa dịch chuyển theo phương vỉa»31,6 mm/m; biến dạng ngang cực đại theo hướng vuông góc phương vỉa»24,5 mm/m.
Các trị số tính toán trên đều lớn hơn nhiều lần so với trị số biến dạng cho phép, tức là sau khi khai thác, trên mặt đất tạo thành các khoảng sụt lún, các vết nứt, làm phá huỷ toàn bộ nhà cửa, công trình xây dựng trên bề mặt đất, phá huỷ hệ thống thuỷ lợi, gây ngập úng bề mặt. Cũng không loại trừ khả năng ở độ sâu 300 – 500 m hoặc lớn hơn, có thể khai thác với phương pháp phá hoả toàn phần trong lò chợ dài hoặc lò chợ ngắn. Với tính chất cơ lý mềm yếu của nham thạch địa tầng chứa than, thì khả năng này không nhiều và cần được nghiên cứu kỹ lưỡng hơn. Như vậy, có thể khẳng định, nếu khai thác với phương pháp phá hoả, cần di chuyển toàn bộ các công trình xây dựng, thay đổi mục đích canh tác, di chuyển dân cư, công sở… Điều này liên quan đến vấn đề xã hội và chi phí lớn, mặc dù sơ bộ tính toán khai thác với phương pháp phá hoả có thể rẻ hơn khai thác với phương pháp chèn lò thuỷ lực 1,4 – 2,0 lần.
Từ những tính toán sơ bộ như trên có thể thấy rằng, bằng phương pháp hầm lò với chèn cát bằng thuỷ lực có thể khai thác được khoảng 90 – 110 triệu tấn than ở khu vực Bình Minh, bảo vệ được các công trình bề mặt với chiều dày khai thác tổng cộng khoảng 6,0 m; không loại trừ khả năng có thể khai thác chiều dày than 9 – 10 m hoặc có thể lớn hơn. Ở một số khu vực sâu trên 300 – 500 m, có thể sử dụng phương pháp phá hoả toàn phần trong các lò chợ dài, lò chợ ngắn. Trên thực tế, để quyết định mở mỏ, cần giải quyết hàng loạt vấn đề khác nữa như nước mỏ, công nghệ đào lò và khai thác trong điều kiện đất đá mềm yếu, đặc biệt là xác định giá thành khai thác trong trường hợp một mô hình mỏ cụ thể.
Trên cơ sở các điều kiện địa chất mỏ, có thể đề xuất sơ đồ mở vỉa, phương pháp chuẩn bị và khai thác cho khu vực mỏ Bình Minh theo 3 phương án cơ bản sau:
- Phương án 1: Toàn bộ khu vực khoáng sàng kích thước 7,6 km x 3,4 km được khai thác bằng một mỏ. Khai trường được phân chia thành ba khối (3 blốc) với chiều dài cánh 1800 m, mở vỉa bằng một cặp giếng nghiêng ở khu vực T.O (tuyến thăm dò O) gần giới hạn khoáng sàng ở phía Tây Băc, nơi chiều sâu vỉa 170 m (Chiều dày lớp đất đá phủ 120 m). Để đưa vật liệu vào chèn lò đào giếng vận tải vật liệu ở khu vực tuyến T11 ở giới hạn trên khai trường. Sử dụng hệ thống khai thác chia lớp nghiêng với phương pháp điều khiển đá vách bằng chèn lò thuỷ lực.
Để xác định các thông số công nghệ và thông số quá trình dịch động biến dạng đá mỏ trước tiên cần tiến hành khai thác khu vực mỏ thử nghiệm (KMTN) ở vỉa V4, vùng giữa tuyến T.1 0và T.O.KMTN được mở bằng 3 lò ngầm (ngầm đi lại, ngầm vận tải, ngầm thông gió) đào từ sân các giếng nghiêng. Các lò ngầm được bố trí các hầm ga chứa nước. KMTN được khai thác bằng lò chợ dài bố trí theo phương, hướng khai thác từ dưới lên với phương pháp chèn lò, sử dụng tổ hợp khai thác (Pharox 18/32 PO) chiều cao khấu 1,9 – 3,0 m. Vật liệu chèn được đưa vào lò theo giếng thông gió. Chuẩn bị ruộng mỏ được tiến hành bằng đào cặp lò song song do chiều dài cột khai thác lớn (1800 m).
Điều kiện địa chất phức tạp nên cần sử dụng phương pháp đào lò đặc biệt, đặc biệt là khi đào các giếng nghiêng, giếng đứng qua vùng đất đá phủ (dày 120 m) ngậm nước và mềm yếu. Đối với các giếng nghiêng, các phương pháp gia cường khối đá, phương pháp làm đóng băng khối đá mỏ hoặc phương pháp sử dụng tổ hợp giàn chắn như được sử dụng trong đào các đường tàu điện ngầm (metro). Đối với các giếng đứng đường kính nhỏ hơn 6,0 m, ngoài các phương pháp truyền thống, có thể sử dụng phương pháp khoan toàn tiết diện bằng tổ hợp khoan của hãng “WIRTH”. Đối với các đường lò bằng và nghiêng, đào lò bằng các loại máy combai. Các đường lò đào trong lớp đất đá phủ được chống bẳng bê tông cốt thép liền khối, trong than hoặc lớp đá gốc chống giữ bằng vì chống sắt SVP 22, 27 và tấm chèn bê tông. Giếng đứng chống bằng bê tông liền khối, hoặc bằng ống sắt lồng giữa 2 ống lồng chèn bê tông xi măng – cát, khi đó đường kính đào 7,0 m, đường kính sau chống 6,0 m. Công suất khu mỏ thực nghiệm – 600.000 tấn/năm, công suất blốc là 1.500.000 tấn/năm. KMTN được khai thác đầu tiên, trước khi đưa các blốc vào khai thác. Để tăng công suất mỏ đến 3,0 triệu tấn/năm có thể khai thác đồng thời 2 blốc. Theo tính toán, trữ lượng công nghiệp trong giới hạn nghiên cứu vỉa V4 là 55 – 60 triệu tấn, vỉa V3 – 120 – 140 triệu tấn.
- Phương án 2: Mở vỉa bằng các giếng đứng để giảm khối lượng mét lò đào trong vùng địa chất phưc tạp. Sân công nghiệp được bố trí ở khu vực tuyến Tlll tại cửa giếng chính và giếng phụ. Phương pháp chuẩn bị và khai thác tương tự phương án 1. Trong trường hợp này, KMTN chỉ được chuẩn bị đưa vào khai thác sau khi đã xây dựng xong toàn mỏ. Do đặc điểm các vỉa liền kề nhau, nên cũng có thể xem xét phương án thiết kế chuẩn bị khai thác đồng thời cả 2 vỉa và như vậy có thể tăng công suất thiết kế lên đến 2 lần.
- Phương án 3: Kết quả đánh giá sơ bộ độ lún và biến dạng mặt đất trong trường hợp khai thác sử dụng phương pháp phá hoả toàn phần cho thấy có thể xem xét ngay phương án mở vỉa huy động khai thác mỏ Bình Minh – Khoái Châu ở các khu vực trữ lượng nằm ở độ dưới 300 – 500.
Khai trường được mở vỉa bằng một cặp giếng đứng ở khu vực lỗ khoan LK 24 Ttuyến thăm dò T.VI tại giới hạn khoáng sàng ở phía Đông Bắc, nơi chiều sâu vỉa 400. Sân công nghiệp được bố trí ở khu vực tuyến T.VI tại cửa giếng chính và giếng phụ. Công suất khai thác của blốc là 1.500.000 tấn/năm. Để tăng công suất mỏ đến 3,0 triệu tấn/năm có thể khai thác đồng thời 2 blốc. Sơ đồ mở vỉa của 3 vỉa V3 tương tự sơ đồ mở vỉa của vỉa 4.
Sơ đồ đánh giá chi phí đào lò theo các phương án cho thấy phương án 1 có tổng chi phí đầu tư xây lắp các đường lò xây dựng cơ bản là 59,78 triệu USD, phương án 2 là 59,28 triệu USD và phương án 3 là 57,46 triệu USD. Phương án 1 và phương án 2 áp dụng công nghệ khai thác sử dụng cát chèn lò bằng thuỷ lực, phương án 3 khai thác điều khiển đá vách bằng phá hoả toàn phần. Về đầu tư xây dựng các đường lò, phương án 3 có chi phí thấp nhất so với các phương án. Còn hai phương án 1 và 2 có thể xem xét như nhau. Tuy nhiên phương án 1 có đầu tư ban đầu ít hơn phương án 2 khoảng 1,5 lần và khai thác KMTN trong 3 năm được 1,8 triệu tấn cho phép nghiên cứu chi tiết đặc điểm điều kiện địa chất mỏ, các thông số công nghệ với phương pháp chèn lò, từ đó có thể xem xét tính hợp lý về kỹ thuật cũng như kinh tế khi khai thác mỏ Bình Minh.
Với các phương án vỉa và khai thác mỏ Bình Minh – Khoái Châu theo đề xuất cần triển khai các phương án khảo sát bổ sung tương ứng sau:
- Phương án khảo sát bổ sung điều kiện địa chất thủy văn, địa chất công trình nhằm phục vụ cho mở mỏ thực nghiệm theo phương án khai thác áp dụng chèn lò cho mức (- 300) lên lộ vỉa, đây là khu vực mỏ được các lỗ khoan thăm dò xác định với độ tin cậy cao, điều kiện tài nguyên tốt. Các nhiệm vụ của phương án như sau:
Xác định giới hạn dưới và bề dày tầng chứa nước tiếp giáp bề mặt;
Chính xác hoá các thông số thấm tầng Neogen;
Chính xác hoá sự thấm xuyên từ tầng Đệ tứ xuống tầng Neogen;
Chính xác hoá tính chất cơ lý đá vách trụ các vỉa than.
- Phương án khảo sát thăm dò bổ sung cần thiết đối với khu vực mỏ ở mức sâu hơn (300 – 500 m), nơi có điều kiện khai thác tương đối đơn giản hơn nhưng độ tin cậy về tài nguyên thấp do mạng lưới lỗ khoan thưa, cần chuẩn xác hoá các điều kiện địa chất và trữ lượng nhằm mục tiêu mở ngay khu mỏ thực nghiệm ở mức độ sâu và xem xét khả năng khai thác hầm lò với phương pháp phá hoả toàn phần hoặc phương pháp chèn lò từng phần. Nhiệm vụ của phương án như sau:
Nghiên cứu chi tiết đặc điểm địa chất thủy văn, mối liên hệ thuỷ lực theo hướng thẳng đứng, tính cách nước, chứa nước các tầng khác nhau và xác định lớp ngăn cách nước có trong địa tầng trầm tích Neogen và đánh giá định lượng khả năng ngăn nước của nó.
Thiết lập các trạm quan trắc động thái nước ngầm của các tầng chứa nước khác nhau và theo dõi sự liên hệ giữa chúng.
Quy hoạch phát triển khai thác và tính toán mô phỏng lượng nước thường xuyên chảy vào mỏ, bao gồm lượng nước chảy vào mỏ lớn nhất và quy luật thay đổi theo từng thời kỳ.
Xác định các đứt gãy có biên độ dịch chuyển lớn hơn 5m để có cơ sở bố trí lò chợ của khu khai thác ban đầu, lựa chọn phương pháp khai thác và để tính toán ngăn ngừa bụn nước vào mỏ.
Xác định độ sâu tầng chứa nước tiếp giáp bề mặt.
Xác định các thông số: nhiệt độ của đất đá, nước ngầm ở tầng sâu, độ chứa khí tự nhiên, tính tự cháy của than, tính khả tuyển của than, chiều dày, cấu tạo, mức cao của vách trụ vỉa các vỉa than, tính chất của than…
Tính toán trữ lượng, tài nguyên than trong phạm vi thăm dò bổ sung.
Tài liệu tham khảo
1.Đoàn Văn Kiển. Bể than đồng bằng sông Hồng - Triển vọng và thách thức. Tạp chí Than Việt Nam số 131/2004.
2. Phùng Mạnh Đắc. Một số vấn đề nghiên cứu khai thác than khu vực Bình Minh – KHoái Châu – Hưng Yên thuộc bể than đồng bằng sông Hồng. Thông tin KHCN Mỏ số 1/2004.
3. Phùng Mạnh Đắc. Đánh giá khả năng khai thác vùng than Bình Minh – Khoái Châu - Hưng Yên thuộc bể than đồng bằng sông Hồng từ quan điểm điều kiện địa cơ mỏ. Đặc san Tạp chí Than Việt Nam . Số 11-2004.
4. Phùng Mạnh Đắc và nnk. Báo cáo tổng kết khoa học và kỹ thuật đề tài “Nghiên cứu các giải pháp khoa học và công nghệ nhằm huy động tổng hợp tài nguyên phục vụ chiến lược phát triển bền vững trong khai thác và sử dụng than ở Việt Nam ”. Hà Nội 3/2006.