Một số chính sách xã hội của các chúa Trịnh đối với ngoại Kiều phương Tây thế kỷ XVII - XVIII
Hoạt động của ngoại kiều phương Tây ở Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII...
Năm 1523, vua Bồ Đào Nha đã gửi một bức thư đến chính quyền Đại Việt chính thức xin thông thương và truyền đạo. Đến năm 1533, giáo sĩ người Bồ Đào Nha đã tới Đàng Ngoài truyền đạo, mở đầu cho quan hệ bang giao giữa Đại Việt với các nước phương Tây. Sang thế kỷ XVII, người Hà Lan, người Anh và người Pháp cũng lần lượt đến Đàng Ngoài đặt quan hệ ngoại giao.
Thời kỳ này, các nước phương Tây đến Đàng Ngoài chỉ có hai hoạt động chính, đó là thông thương và truyền giáo. Tuy nhiên, động cơ và mục đích của mỗi nước có khác nhau. Nếu như người Hà Lan và người Anh đặt trọng tâm vào mở rộng thị trường buôn bán thì người Bồ Đào Nha và người Pháp lại chú ý nhiều hơn đến việc truyền đạo. Những hoạt động của người Pháp mập mờ giữa lĩnh vực tôn giáo và thương mại, “họ có thương điếm nhưng không thể nói rành mạch là dùng để buôn bán hay nhằm mục đích truyền giáo” (2). Người Bồ Đào Nha cũng vậy, ảnh hưởng thương nghiệp của họ mờ nhạt, chủ yếu là việc truyền đạo.
Cho phép thông thương và truyền đạo đồng nghĩa với việc chính quyền Đàng Ngoài thừa nhận có một cộng đồng người Âu sinh sống ổn định và lâu dài trên đất nước. Phần lớn ngoại kiều cư trú trong các thương điếm của họ. Thương điếm của Hà Lan được lập ở phố Hiến từ năm 1637 đến năm 1700 và ở Kẻ Chợ từ năm 1644 đến năm 1700. Thời gian hoạt động ngắn hơn so với người Hà Lan nhưng thương điếm của người Anh cũng tồn tại suốt 25 năm (1672-1697). Năm 1680, Công ty Đông Ấn của Pháp cũng được phép lập thương điếm và hoạt động thương mại liên tục trong 5 năm (1681-1686). Bên cạnh đó, do công việc truyền giáo mà các giáo sĩ phương Tây lại càng muốn cư trú lâu dài và hoà nhập sâu hơn vào đời sống của người dân Việt. Kết quả là đã hình thành một cộng đồng người ngoại quốc trên lãnh thổ Đàng Ngoài. Trong quá trình cộng cư đó, lẽ tự nhiên sẽ diễn ra các mối quan hệ xã hội giữa người Việt với người phương Tây.
... và một số chính sách xã hội của các chúa Trịnh
Để ổn định và phát triển xã hội, đòi hỏi Nhà nước phải có những chính sách phù hợp cho ngoại kiều của từng nước cũng như trong từng hoàn cảnh, từng thời kỳ lịch sử cụ thể. Trên thực tế, chính quyền Lê - Trịnh đã cố gắng đưa ra nhiều giải pháp trên tất cả các lĩnh vực nhằm củng cố và phát triển Đàng Ngoài trong đó có những chính sách về xã hội đối với ngoại kiều châu Âu. Nghiên cứu những chính sách xã hội đối với ngoại kiều của các chúa Trịnh trong quá trình điều hành quốc gia Đàng Ngoài, xét đến cùng, chính là tìm hiểu thái độ của chính quyền Đàng Ngoài đối với các nước phương Tây ở thế kỷ XVII - XVIII, từ đó chúng ta có thể nhìn nhận một cách toàn diện hơn về một trong những thời kỳ biến động và phức tạp nhất của lịch sử dân tộc. Các chính sách này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến mối quan hệ bang giao giữa Đại Việt với phương Tây.
Trong thế kỷ XVII, quan hệ giữa chính quyền Lê - Trịnh với phương Tây nhìn chung là rất hoà hảo. Điều đó thể hiện ở ngay cách tiếp đón nồng hậu của các chúa Trịnh. Chính những người châu Âu đã công nhận rằng: “Khi đến xứ này thì lần nào trở lại họ cũng được chúa đón chào, lần sau trọng thị hơn lần trước” (4). Ngày 24/7/1641, chúa Trịnh Tráng gửi cho phó Toàn quyền Hà Lan ở Đài Loan một bức thư, trong thư thể hiện rõ sự tin cậy và quý mến đối với người phương Tây: “Tôi thấy ông ta (thuyền trưởng Hartsinde) tâm địa ngay thẳng, tôi coi ông ta như bàn tay phải của tôi và thắng lợi to nhất là người Hà Lan được tự do buôn bán ở Đàng Ngoài” (9). Trước đó, năm 1627, chúa Trịnh Tạc còn kết bạn đồng tuế với giáo sĩ Alexandre de Rhodes (1).
Đa số các chúa Trịnh đều tỏ ra có thiện cảm với người phương Tây. Chẳng hạn như Trịnh Doanh (1720-1767), mặc dù là vị chúa đã ra nhiều lệnh chỉ cấm cư trú đối với người phương Tây nhưng cũng có lúc bảo vệ kiều dân châu Âu. Trịnh Doanh đã từng có lệnh cấm sự miệt thị với người phương Tây: “…Ai dám nói xấu người châu Âu nữa sẽ bị cắt lưỡi” (5).
Nhận thức rõ là số lượng ngoại kiều châu Âu cư trú ở Đàng Ngoài, dù ít, nhưng đây là một cộng đồng người cần phải quan tâm nhất. Do vậy, để dễ dàng cho việc quản lý, các chúa Trịnh đã có những chính sách cụ thể đối với họ.
Năm Khánh Đức thứ hai (1650), chúa Trịnh Tạc đã ra quy định cho phép: “Các tàu Hoà Lang (Pháp), Bồ Đào Nha, Italia, Anh, Ô lan (Hà Lan) khi đến nơi sẽ được phép trú ngụ ở những làng Thanh Trì và Khuyến Lương, được canh gác và được một người thông sự cùng quốc tịch để phiên dịch và giúp đỡ hiểu biết thể lệ…” (11).
Từ châu Âu sang, người phương Tây luôn mong muốn có một môi trường thuận tiện và yên ổn cho những hoạt động của họ ở Đại Việt. Để làm được điều đó, họ luôn tìm mọi cách để lấy thiện cảm của các vua chúa cũng như các quan lại và dân chúng bằng cách dùng nhiều quà biếu hay đáp ứng những nhu cầu đòi hỏi của các chúa Trịnh đưa ra. Đồng thời, ngoại kiều phương Tây rất khéo dùng chiêu bài tìm cha mẹ nuôi có thế lực để tránh sự nhũng nhiễu của giới quan lại quản lý ở địa phương. Không dừng lại đây, họ còn lấy vợ Việt. Người châu Âu lợi dụng việc lấy vợ Việt để gây cơ sở. Những người vợ này không những là người tin cậy có thể giao phó cơ nghiệp trong lúc họ vượt biển mà còn giúp họ tiếp tục thực hiện công việc kinh doanh mua bán trong khi họ không có mặt.
Trong khi đó, người dân Việt cũng rất dễ tiếp nhận người phương Tây. Willam Dampier đã viết trong chuyến du hành của mình đến Đàng Ngoài năm 1688: “Đàn bà không ngại nếu họ có mang với người da trắng. Ngay cả người quyền quý ở xứ Đàng Ngoài cũng đem hiến con gái cho các thương nhân và đám sĩ quan” (12). Đặc biệt, chúa Trịnh Căn đã nhận một người con lai, bố là người Hà Lan và mẹ là người Việt làm con nuôi của mình, tên là Samuel Baron.
Những điều kiện thuận lợi mà các chúa Trịnh đã dành cho ngoại kiều làm cho người phương Tây hoà nhập rất nhanh vào cộng đồng người Việt. Hơn nữa, người dân Đại Việt cũng tỏ ra không có sự nghi kỵ người phương Tây. Chính những người phương Tây đã khẳng định rằng, khi đến Đàng Ngoài họ đã nhận được nơi đây những tình cảm bằng hữu thân thiết và “cảm thấy tự do y như sống ở nhà riêng của họ vậy” (12).
Hệ quả của sự giao lưu đó dẫn đến những ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nền văn hóa. Bởi đây không đơn thuần là sự tiếp xúc giữa hai cộng đồng người với nhau mà hơn thế là sự tiếp xúc giữa hai nền văn minh. Người châu Âu đến cư trú đã mang theo cả những giá trị văn hoá phương Tây với nhiều nét khác biệt so với văn minh Đại Việt và trên thực tế đã tạo ra những biến đổi xã hội không nhỏ. Đây là mối lo ngại cho triều đình Lê - Trịnh vì kẻ cầm quyền lại rất mong muốn duy trì một xã hội ổn định trong trật tự phong kiến.
Giải quyết mối lo ngại này, các chúa Trịnh hoặc là “Việt hoá” người Âu, bắt ngoại kiều sống theo tập tục của người Việt, hoặc là biệt lập họ khỏi cộng đồng người Việt. Có những vị chúa thì chỉ thực hiện một trong hai giải pháp, nhưng đa số các chúa Trịnh đã đồng thời thực hiện song song cả hai sự lựa chọn.
1. Chính sách Việt hoá người Âu, bắt ngoại kiều tuân theo tập tục người Việt
Vào tháng 8-1663, chúa Trịnh Tạc đã ra một lệnh chỉ: “Cho phép các thừa ty ra lệnh cho tất cả các quan huyện, chánh tổng, lý trưởng, trưởng thôn, trưởng xóm phải lập một bản kê khai chi tiết số người nước ngoài ngụ cư ở địa phương mình, khi nào có thì ghi thêm. Những người nào mà đã có vợ con, thì phải đăng ký vào sổ hộ tịch” (6). Trước đó, năm Khánh Đức thứ hai (1650), chúa Trịnh Tráng đã đưa ra những quy định về các lễ nghi mà người Âu phải tuân theo: “Trong khi đi đường, chỉ người trưởng đoàn được cưỡi ngựa. Đến trước cổng các dinh thị lớn và trước cửa đình thì phải xuống ngựa…” (6). Cuối thế kỷ XVII, trong thời gian cầm quyền của mình, tháng 7-1696 Trịnh Căn lại ra những quy chế cụ thể từ cách ăn mặc, lối sống cho những người phương Tây: “Phàm các xã dân ở giáp địa giới với người ngoại quốc, từ ngôn ngữ đến ăn mặc và cư xử đều nên tuân theo dáng vẻ, lề lối và phong tục nước ta, cấm không được bắt chước người ngoại quốc” (7). Đến tháng 12-1717, Trịnh Cương ban hành một lệnh chỉ: “định rõ chế độ khu xử với người nước ngoài, cho phép ở đâu thì nhập tịch và chịu tạp dịch ở đó. Phải đóng góp mọi việc cho nhà nước. Từ tiếng nói, ăn mặc đến đầu tóc đều phải nhất nhất tuân theo phong tục Đại Việt” (10).
Đáng chú ý, chính quyền Đàng Ngoài còn đảm bảo cho ngoại kiều người Âu có những quyền hạn nhất định của mình như: có quyền tự do đi lại, buôn bán, có thể kết hôn với người bản xứ…, hơn nữa còn có cả quyền sở hữu đất đai ở những thương điếm của họ. Điều này được minh chứng qua sự kiện vào tháng 8-1697, khi thương nhân Anh được phép đến Kẻ Chợ thì họ có quyền thuê nhà của một người phụ nữ Bồ Đào Nha tên là Monica Đabada để thông thương (11).
Nếu xảy ra va chạm hay tranh chấp giữa người châu Âu với người Việt, trong những trường hợp đó, các chúa Trịnh rất công bằng với người phương Tây. Vấn đề này các chúa Trịnh đã có lệnh chỉ rõ ràng: “Những ngoại kiều bị kết tội gây rối đối với người dân vô tội thì sẽ bị phạt và đền bù. Làm một người chết phải đền 100.000 đồng cash*… Người phương Tây sẽ được phép kháng cự lại bất cứ ai chống phá hoặc làm hại bản thân” (12).
Một sự kiện được chính người châu Âu ghi lại thể hiện tính công bằng trong việc đối xử với ngoại kiều của các chúa Trịnh: “Viên quan coi tàu của Đàng Ngoài mà những người Anh gọi là On Ta Hia(?) mua hàng của người Anh định không trả tiền nhưng bị chúa Trịnh Sâm buộc phải trả và hạn trong 15 ngày nếu không trả được sẽ ra lệnh bán nhà và của cải để trả cho thương nhân người Anh đó” (11).
Có thể nói, trong suốt hai thế kỷ, các chúa Trịnh đã cố gắng bằng mọi biện pháp nhằm “Việt hoá” người châu Âu, biến họ trở thành thần dân của mình hoặc chí ít cũng bắt họ tuân thủ theo những phong tục tập quán của người Việt. Những chính sách mà các chúa Trịnh cho thực thi đó có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho người phương Tây cư trú và hoạt động ở Đàng Ngoài. Kết quả của nó là làm cho mối quan hệ giữa hai cộng đồng người Việt và người Âu ngày càng có những ảnh hưởng mạnh mẽ lẫn nhau. Không phải chỉ người Âu theo phong tục người Việt mà ngược lại, người Việt cũng tiếp thu những tập tục mới lạ của người châu Âu, từ phong tục đến khoa học kỹ thuật…, đặc biệt là tôn giáo. Từ năm 1533 đến năm 1659, “ở Đàng Ngoài đã có tới 331 nhà thờ, riêng Sơn Nam là 183” (9). Đến thế kỷ XVIII ở Đàng Ngoài đã có hàng chục vạn tín đồ người Việt theo Thiên chúa giáo. Ngay cả mẹ của chúa Trịnh Tạc và công chúa Mai Hoa cũng theo đạo Thiên chúa (2).
2. Chính sách biệt lập người Âu khỏi cộng đồng người Việt
Quá trình cộng cư lâu dài giữa người Việt và người Âu cũng như sự tiếp thu văn hoá phương Tây của người Việt đã tạo ra những biến đổi không nhỏ trong xã hội Đàng Ngoài, nhất là những trung tâm đô thị và thương cảng - nơi năng động nhất của xã hội Việt Nam thời bấy giờ. Thực tế đó khiến các chúa Trịnh nhận thấy rằng, ngoài những hàng hoá và vũ khí mà triều đình cần thì những gì phương Tây mang đến sẽ huỷ hoại thuần phong mỹ tục của người Việt. Các chúa Trịnh cho rằng “những trường giảng đạo người ở lẫn tạp, trai gái không phân biệt” (7)và người châu Âu “họ sống lẫn lộn từ lâu với người bản quốc và dần dần đi tới chỗ khinh thường phép nước, vượt bỏ cấm đoán” (6). Những biện pháp nhằm “Việt hoá” người Âu tỏ ra ít hiệu quả, nhất là vào cuối thế kỷ XVIII, khi các hoạt động thương nghiệp đã sa sút, ở Đàng Ngoài chủ yếu chỉ còn các giáo sĩ truyền đạo. Để "bảo vệ truyền thống", duy trì kết cấu xã hội phong kiến cũng như vương quyền của mình, các chúa Trịnh đã chọn một giải pháp khác: “tách họ ra khỏi dân gian”, cách ly người Âu đến những nơi cư trú riêng biệt đồng thời cấm các hoạt động truyền đạo.
Năm 1643, chúa Trịnh Tráng đã ra một lệnh chỉ cấm các giáo sĩ phương Tây truyền đạo, đốt sách kinh và các giáo đường. Đồng thời, các chúa Trịnh nối nghiệp cũng ra sức ngăn cấm người Việt theo Thiên chúa giáo. Hình thức xử phạt người vi phạm ngày càng nặng. Nếu như năm 1650, người theo đạo khi bị phát hiện phải chịu năm mươi roi, thì đến năm 1696, hình phạt đã lên đến tám mươi trượng (6). Đây là một hình phạt hết sức nặng nề. Điều này cũng phản ánh quá trình ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ của văn hoá phương Tây vào nền văn hoá Việt Nam truyền thống.
Năm Chính Hoà thứ tám (1687), chúa Trịnh Căn đã ra một lệnh chỉ, trong đó cấm người nước ngoài không được tụ tập và trú ngụ tại kinh thành. Nội dung của đạo chỉ như sau:
“Điều một: Một đạo lệnh cấm ngặt người nước ngoài không được tụ họp ở Kinh sư và trú ngụ ở đấy. Truyền lệnh cho viên đề lĩnh phải thẳng tay thi hành…
Điều bốn: Các người ở trên tàu (chỉ những ngoại kiều) khi đến đây phải ngụ ở nhà của viên trấn thủ Hải Dương. Khi họ có công việc gì cần về Kinh sư sẽ có người đưa đi. Sau khi xong việc, họ phải về nơi đã quy định, không được ở lại Kinh sư.
Điều năm: Tất cả các lái đò, kẻ nào dấu diếm chở người nước ngoài sẽ bị trừng trị.
Điều sáu: Những người nước ngoài đã được phong tước tử và đã được đăng ký hộ tịch, không ở diện nói trên thì họ được cư trú lại Kinh sư” (6).
Sang đầu thế kỷ XVIII, với sự trị vì của hai vị chúa Trịnh Doanh và Trịnh Sâm thì tâm lý bài ngoại của chính quyền ngày càng tăng. Năm Vĩnh Trị thứ tám (1712), chúa Trịnh Doanh đã ra một đạo dụ cấm đạo Thiên chúa mang nội dung rất khắt khe: “Phàm ai có đồ đạc và sách vở về đạo Hoa lang thì cho phép nộp lại, xã trưởng hoặc phường trưởng sở tại sẽ cho tiêu huỷ ngay cho mọi người đều biết. Hạn một tháng, ai còn mê đắm, dấu diếm thì bắt lập tức giải quan lưu thủ hoặc trấn thủ. Quan lưu thủ hoặc trấn thủ sẽ cắt tóc đỉnh đầu và thích bốn chữ “ học Hoà lang đạo” để răn đe. Lại thu của bọn tội nhân 100 tiền sử* để thưởng cho người đã tố cáo. Kẻ đầu sỏ còn trú ngụ ở Sơn Nam thì phải đưa về nước họ… Không cứ người Tây dương, người Nhật bản hay người nước ta đều phải bắt về để trừng trị” (8). Năm 1773, Trịnh Sâm lại hạ lệnh: “hạn định trong hai tháng, người nào theo đạo Hòa lang phải thay đổi hết phong tục cũ, người nào trái lệnh sẽ bị trị tội. Ai cố ý dung túng sẽ bị tội lây, ai tố cáo được sẽ tha lao dịch cho ba đời” (10).
Có thể giải thích được hiện tượng này vì từ cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XVIII, tình hình kinh tế - chính trị Đàng Ngoài đã rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Bên cạnh đó, hạn hán, mất mùa xảy ra liên tục. Các giải pháp mang tính tình thế không thể đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Hiện tượng nông dân phải xiêu tán khắp nơi lại càng làm cho tình hình thêm bất ổn. Những nhân tố trên làm cho khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi, trong đó có sự tham gia của giáo dân người Việt và cả các giáo sĩ cũng như là thương nhân người Âu. Tháng 9-1671, chúa Trịnh Tạc phải ra một lệnh chỉ “cấm thông đồng với người nước ngoài buôn bán súng trộm” (7)cho bọn phản loạn. Điều này làm cho các chúa Trịnh từ đầu đã có ý thức “phòng ngự” đối với người phương Tây thì đến lúc này đã đi đến quyết định là chống lại họ bằng những chính sách cứng rắn hơn. Bắt đầu từ giữa thế kỷ XVII đến hết thế kỷ XVIII, các lệnh chỉ cấm đạo đã được đưa ra thi hành vào những năm: 1643, 1662, 1663, 1696, 1670, 1712, 1721, 1723, 1737, 1745, 1753, 1773. Trong đó các chúa Trịnh còn cho thực hiện hình thức mạnh nhất đó là xử trảm các giáo sĩ vào các năm 1745 và 1773 (3).
Với những chính sách xã hội về ngoại kiều phương Tây mà các chúa Trịnh đã thực hiện trong hai thế kỷ XVII - XVIII như đã trình bày trên có thể đưa ra nhận xét:
Thứ nhất, trong những thập niên đầu của thế kỷ XVII, các chúa Trịnh thời kỳ đầu tỏ ra trọng thị với người phương Tây. Gần một trăm năm, từ khi có người châu Âu đầu tiên đặt chân lên đất Đàng Ngoài đến trước năm 1643, đã không có một sự kì thị nào đối với người Châu Âu, ngược lại chính quyền còn tạo mọi điều kiện để cho mối quan hệ giữa hai bên được tốt đẹp. Những chính sách xã hội đối với ngoại kiều người Âu thể hiện tính năng động của chính quyền Đàng Ngoài trong việc điều hành đất nước.
Thứ hai, đáng chú ý là các chúa Trịnh đã không chú trọng tiếp thu một cách có hệ thống những thành tựu khoa học kỹ thuật của phương Tây mà trên thực tế, duy trì mối quan hệ tốt đẹp đó chỉ để tranh thủ được sự trợ giúp của người châu Âu vào cuộc chiến tranh với Đàng Trong cũng như là tạo ra sự phát triển kinh tế công - thương nghiệp Đàng Ngoài. Điều này lại thể hiện tính thực dụng trong chính sách ngoại giao, nó là cơ sở cho sự “từ chối” khi mà những ảnh hưởng của người phương Tây tỏ ra "nguy hiểm" đến nền thống trị đang bước vào giai đoạn khủng hoảng chưa tìm ra lối thoát hữu hiệu, dẫn đến việc các chúa Trịnh đã cho ban hành những lệnh chỉ cấm đạo, thậm chí là cấm cả người châu Âu cư trú ở Đàng Ngoài. Từ việc chống lại tôn giáo một cách cực đoan dẫn đến từ chối tất cả những thành tựu của nền văn minh mới, những chính sách có tính bài ngoại đó lại làm mất đi điều kiện để người Việt có thể tiếp thu nền văn minh phương Tây, khiến cho Việt Nam thời kỳ này không thể có một phong trào như “phong trào Hà Lan học” ở Nhật Bản cùng thời, mặc dù người dân Đàng Ngoài vốn không có tâm lý bài ngoại, nếu không muốn nói là sẵn sàng tiếp thu nền văn minh phương Tây. Rõ ràng, các chúa Trịnh đã làm cho dân tộc ta bị bỏ lỡ một cơ hội chủ động hoà nhập với làn sóng văn minh mới đang phát triển, mà thời kỳ này được coi là một giải pháp nhằm giải quyết tình trạng khủng hoảng ngày càng trầm trọng ở Đàng Ngoài, mở đường cho sự phát triển của đất nước để sang thế kỷ XIX, khi các nước tư bản phương Tây đã trở thành những nước đế quốc thì Việt Nam phải chịu sự áp đặt nghiệt ngã và lịch sử dân tộc bước vào một giai đoạn đen tối và quanh co nhất. Những chính sách xã hội của các chúa Trịnh đối với ngoại kiều châu Âu trong các thế kỷ XVII - XVIII để lại bài học về “mở cửa” và “hội nhập” của Việt Nam hiện nay./.
Chú thích:
*Tiền sử: tức tiền quan. Mỗi tiền gần bằng 36 đồng Cổ tiền, mỗi quan kẽm Cổ tiền là 200 đồng.
*Cash: Người Hà Lan ở Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII gọi Cổ tiền là Cash.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban nghiên cứu và biên soạn lịch
sử Thanh Hoá (1995), Kỷ yếu hội thảo khoa học: Chúa Trịnh - Vị trí và vai trò lịch sử, Thanh Hoá, tr.231.
2. Bùi Hạnh Cẩn, Ý đồ và hoạt động của các giáo sĩ nước ngoài trên đất Việt Nam thế kỷ XVII - XVIII, Nghiên cứu lịch sử, số 2(198), tr.29, 40.
3. Charles Maybon, Những người châu Âu ở nước An Nam, Nxb Thế giới Hà Nội 2006, tr.72.
4. Jean Patiste Tavernier, Tập du ký mới và kỳ thú về vương quốc Đàng Ngoài, Nxb thế giới Hà Nội 2005, tr.26.
5. Nguyễn Văn Kiệm, Góp phần tìm hiểu một số vấn đề lịch sử cận đại Việt Nam , Nxb Văn hoá thông tin Hà Nội 2003, tr.532.
6. Nhà in Bình Minh, Lê triều chiếu lệnh thiện chính (bản dịch của Nguyễn Sĩ Giáp), Sài Gòn 1961, tr.127, 177, 313, 341.
7. Ngô Sĩ Liên (1998), Đại Việt sử ký
toàn thư, tập 3, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.265,285.
8. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Việt sử thông giám cương mục, tập II, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội, tr.400.
9. Uỷ bản nhân dân tỉnh Hải Dương (1994), Phố Hiến - kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb Sở văn hoá thông tin thể thao Hải Dương, tr.134,147, 238.
10. Viện khoa học xã hội, Viện nghiên cứu Hán Nôm (1981), Đại Việt sử ký tục biên, Hà Nội, tr.72, 358.
11. Thành Thế Vỹ (1961), Ngoại thương Việt Nam hồi thế kỷ XVII - XVIII và đầu thế kỷ XIX, Nxb Sử học Hà Nội, tr.188, 172, 174.
12. Willam Dampier (2005), Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688, Nxb Thế giới Hà Nội, tr.70, 105, 106.