Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 15/11/2010 18:23 (GMT+7)

Mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - Quá trình hoàn thiện, phát triển tư duy lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội

Sau thắng lợi lịch sử mùa Xuân năm 1975, đất nước hoàn toàn giải phóng, cả nước bắt tay vào công cuộc xây dựng CNXH. Mô hình CNXH mà chúng ta xây dựng trong thời kỳ này là mô hình CNXH của Liên Xô. Theo đó, chúng ta đã đối lập giữa CNXH với CNTB theo tinh thần phủ định hoàn toàn CNTB. Trong lĩnh vực kinh tế, do coi kinh tế tập trung, bao cấp là đặc trưng của kinh tế XHCN nên đã coi nhẹ hoặc phủ nhận sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị, có thành kiến với kinh tế thị trường (đồng nhất kinh tế thị trường với CNTB). Đặc biệt, trong nhận thức về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã có nhiều vi phạm quy luật khách quan như cường điệu vai trò của chế độ công hữu, đối lập sở hữu tư nhân với CNXH, muốn nhanh chóng xoá bỏ bóc lột, nhấn mạnh một chiều nhiệm vụ cải tạo quan hệ sản xuất mà coi nhẹ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất. Trong lĩnh vực chính trị, do đồng nhất Nhà nước pháp quyền với Nhà nước tư sản nên đã không thừa nhận tính chất pháp quyền của Nhà nước XHCN, không nhận thức đầy đủ yêu cầu, phát huy dân chủ trong xây dựng xã hội mới… Mặc dù công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta giai đoạn 1975 - 1985 đã đạt được những thành tựu to lớn: khôi phục kinh tế, khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh; từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới và cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH; bảo vệ vững chắc Tổ quốc; làm tròn nghĩa vụ quốc tế, nhưng do nhận thức giáo điều, giản đơn và ấu trĩ về CNXH nên đất nước đã rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó quan trọng nhất là đổi mới tư duy lý luận, đổi mới nhận thức về mô hình CNXH mà chúng ta xây dựng: thay thế mô hình CNXH kiểu Xô viết bằng mô hình cụ thể, phù hợp với điều kiện cách mạng nước ta. Đại hội VI đã đưa ra những nhận thức mới về cơ cấu kinh tế, công nghiệp hoá XHCN trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa và thị trường, từ bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp và khẳng định cần chuyển sang hạch toán kinh doanh. Đại hội VI đã chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp, coi trọng lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người. Có thể nói, Đại hội VI đã đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về CNXH.

Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991), Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH(gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991), trong đó đã xác định mô hình CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng là một xã hội:

"-Do nhân dân lao động làm chủ.

- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.

- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.

- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.

- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới".

Những đặc trưng của mô hình CNXH ở nước ta mà Cương lĩnh năm 1991 đã khái quát vừa thể hiện tính phổ biến theo học thuyết Mác-Lênin về CNXH, vừa thể hiện tính đặc thù của dân tộc, có tính đến những đặc điểm của thời đại.

Qua các kỳ Đại hội Đảng lần thứ VIII (năm 1996), IX (năm 2001), X (năm 2006), Đảng ta tiếp tục bổ sung, hoàn thiện nhận thức về mô hình CNXH ở nước ta.

Tại Đại hội X, Đảng ta xác định: "Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới".

So với Cương lĩnh năm 1991, Đại hội X đánh dấu bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng ta. Những đặc trưng của mô hình CNXH được nêu trong Văn kiện Đại hội X có một số điểm mới so với Cương lĩnh năm 1991. Cụ thể là Đại hội X đã bổ sung thêm 2 đặc trưng mới: thứ nhất và thứ bảy:

Đặc trưng thứ nhất, "… là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh". Trong Cương lĩnh năm 1991 chưa nói đến đặc trưng này. Đại hội VIII đã xác định mục tiêu của cách mạng nước ta là "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh". Đến Đại hội IX đã bổ sung thêm từ "dân chủ", thành "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Đại hội X đã xác định đó còn là đặc trưng phổ quát của mô hình CNXH mà nhân dân ta xây dựng. Đặc trưng này làm cho CNXH gần với mọi người, mọi trình độ nhận thức và thậm chí nó có khả năng thống nhất ý kiến của những người có thể có chính kiến khác. Đây là điểm hội tụ để đoàn kết các dân tộc.

Đặc trưng thứ bảy, "có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản". Cương lĩnh năm 1991 chưa nói đến việc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn đến từ rất sớm, nhưng về văn bản chính thức thì mãi đến tháng 1/1994 trong Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII mới chính thức đưa ra khái niệm về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Lúc đó, vấn đề này được đặt ra như một nhiệm vụ, đến Đại hội VIII, IX thì trở thành một quan điểm trong xây dựng Nhà nước ở nước ta. Tại Đại hội X, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đã trở thành một đặc trưng của mô hình CNXH ở nước ta. Đây là sự phát triển lý luận rất quan trọng của Đảng ta về mô hình CNXH.

Ngoài ra, những đặc trưng khác trong Văn kiện Đại hội so với Cương lĩnh năm 1991 cũng có sự thay đổi về cách diễn đạt:

Đặc trưng thứ hai, "Do nhân dân làm chủ" (Cương lĩnh năm 1991 khẳng định: "Do nhân dân lao động làm chủ").

Đặc trưng thứ ba, "Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất". Như vậy, Đại hội X chỉ khẳng định có "quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất", còn Cương lĩnh năm 1991 lại khẳng định quan hệ sản xuất dựa trên "chế độ công hữu về các tư liệu sản xuát chủ yếu".

Đặc trưng thứ năm, "con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện". So với Cương lĩnh năm 1991, Đại hội X đã bỏ từ "bóc lột". Về nguyên tắc phân phối "làm theo năng lực, hưởng theo lao động" (Cương lĩnh năm 1991) tuy không được đề cập ở đặc trưng này (bởi việc đưa nguyên tắc phân phối vào tiêu chí về con người là không hợp lôgíc) song ở nhiều phần khác, Văn kiện Đại hội X đã làm rõ và khẳng định là nguyên tắc phân phối chủ yếu của CNXH. Ngoài ra, về đặc trưng này Đại hội X còn sửa chữa cụm từ "có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân" thành "phát triển toàn diện".

Đặc trưng thứ sáu, "Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ", đặc trưng này về cơ bản như Cương lĩnh năm 1991, nhưng có bổ sung thêm cụm từ "tương trợ".

Với những bổ sung và phát triển đó, đúng như Đại hội X của Đảng đã khẳng định: "Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội XHCN và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản".

Qua gần 25 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng và có ý nghĩa lịch sử về xây dựng CNXH. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp CNH, HĐH, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam ".

Cũng trong gần 25 năm đổi mới, chúng ta đã nhận thấy giá trị định hướng to lớn của Cương lĩnh năm 1991, đồng thời thấy rõ những vấn đề mới đặt ra cần được bổ sung, phát triển, trong đó có nhận thức về mô hình CNXH. Hội nghị lần thứ mười hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X (tháng 3/2010) đã thông qua Dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011). Trong dự thảo này, Ban chấp hành Trung ương Đảng xác định: "Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển có nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới".

Có thể thấy, cách diễn đạt những đặc trưng của mô hình CNXH theo Dự thảo vừa kế thừa Cương lĩnh năm 1991 vừa dựa trên những nhận thức mới ở các Văn kiện Đại hội VIII, IX và đặc biệt là Văn kiện Đại hội X, đồng thời, có bổ sung, phát triển hơn. Cụ thể là:

Ở đặc trưng thứ nhất, "Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". So với Đại hội X từ "dân chủ" được đặt trước từ "công bằng". Theo chúng tôi, diễn đạt như vậy là chặt chẽ vì dân chủ là điều kiện, là tiền đề để tạo ra sự công bằng và qua đó, cũng nhấn mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của giá trị dân chủ trong công cuộc xây dựng CNXH hiện nay.

Ở đặc trưng thứ hai, "do nhân dân làm chủ". Dự thảo xác định như Văn kiện Đại hội X. Sau Đại hội X, có ý kiến cho rằng bỏ mất chữ "lao động" là mất lập trường. Nhưng nhiều ý kiến cho rằng, thực chất nhân dân ở đây là nhân dân lao động. Nói nhân dân là vì chúng ta đã khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hơn nữa, nội hàm của khái niệm nhân dân rộng hơn khái niệm nhân dân lao động, do đó, nói nhân dân ở đây sẽ có lợi hơn trong việc thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc. Vì vậy, theo chúng tôi, nhận thức và cách diễn đạt như Văn kiện Đại hội X và Dự thảo là chặt chẽ, phù hợp với cách mạng nước ta giai đoạn hiện nay.

Ở đặc trưng thứ ba, "Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu". Ở đặc trưng này, Dự thảo lại quay về với Cương lĩnh năm 1991. Sau Đại hội X, có ý kiến cho rằng: Quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ lên CNXH dựa trên chế độ công hữu hay không là do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định, chứ không phải do ý muốn chủ quan áp đặt nên diễn đạt như Văn kiện Đại hội X là chính xác". Điều này không đúng bởi chúng ta không bàn về xã hội ở thời kỳ quá độ mà bàn về xã hội XHCN (tức là sau khi đã kết thúc thời kỳ quá độ). Cũng có ý kiến ngộ nhận cho rằng, Đảng ta đã từ bỏ chế độ công hữu, rằng công hữu hay tư hữu không còn quan trọng nữa miễn là quan hệ sản xuất tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Theo chúng tôi, CNXH nhất định phải là một chế độ xã hội được xây dựng trên nền tảng chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu (còn chế độ công hữu đó được thực hiện dưới những hình thức nào? Xác lập chế độ công hữu phải có điều kiện gì? Bằng con đường nào?... thì cần được làm rõ thêm). Do đó, ở đặc trưng này diễn đạt như Cương lĩnh năm 1991 hay như Dự thảo là chính xác, chặt chẽ, không gây ngộ nhận về CNXH.

Ở đặc trưng thứ năm, "con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện". So với Đại hội X, Dự thảo đã bỏ cụm từ "được giải phóng khỏi áp bức, bất công". Theo chúng tôi, diễn đạt như vậy là cô đọng, chặt chẽ thể hiện đầy đủ bản chất tốt đẹp của CNXH.

Ở đặc trưng thứ sáu, "Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển". So với Đại hội X, Dự thảo đã bỏ từ "tương trợ" và thêm từ "tôn trọng". Việc bỏ từ "tương trợ" để tránh sự lặp lại dài dòng (sự tương trợ nằm trong sự giúp đỡ lẫn nhau). Việc thêm từ "tôn trọng" ở đây theo chúng tôi là cần thiết và phù hợp (những chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước sau này cần chú ý đến điều này).

Ở đặc trưng thứ bảy, "có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo". So với Đại hội X, Dự thảo đã sửa chữa cụm từ "dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản" thành "do Đảng Cộng sản lãnh đạo".

Nhận thức về mô hình CNXH trong Dự thảo cũng là bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng thông qua thực tiễn đổi mới đất nước. Tuy nhiên, theo chúng tôi, những đặc trưng của mô hình CNXH trong Dự thảo cần được sắp xếp lại và có sự bổ sung thêm. Cụ thể là cần khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ đối với Nhà nước mà với toàn xã hội; khẳng định nền tảng tư tưởng của chế độ xã hội là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, bổ sung thêm đặc trưng mới: đó là xã hội có sự phát triển hài hoà giữa con người với tự nhiên (đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội theo hướng bền vững, hài hoà).

Do đó, để bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991, theo chúng tôi, cần diễn đạt mô hình CNXH mà nhân dân ta xây dựng trong thời kỳ đổi mới như sau: "Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là chế độ xã hội do nhân dân là chủ; đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; xã hội có sự phát triển hài hoà giữa con người với tự nhiên; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới". Diễn đạt như vậy, sẽ phân biệt được giữa mục tiêu, nội dung, đặc trưng phổ quát của mô hình CNXH ở nước ta với những đặc trưng cụ thể. Đồng thời, sắp xếp các đặc trưng cơ bản của CNXH theo từng lĩnh vực từ chính trị, đến kinh tế, đến văn hoá và xã hội.

Nhận thức của Đảng ta về mô hình CNXH đã trải qua một quá trình hình thành và phát triển gắn với thực tiễn đổi mới đất nước. Từ Cương lĩnh năm 1991 đến nay, Đảng ta đã có nhiều nhận thức mới, làm sáng tỏ hơn mô hình CNXH. Chắc chắn chúng ta sẽ còn phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển hơn nữa nhận thức về mô hình CNXH ở nước ta trong thời gian tới.

Xem Thêm

Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Thanh Hoá: Phản biện Đề án phát triển Viện Nông nghiệp tỉnh
Sáng ngày 06/05, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo phản biện “Đề án Phát triển Viện Nông nghiệp Thanh Hóa, giai đoạn 2026 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045” (Đề án) với sự tham dự của hội đồng phản biện, các chuyên gia của Liên hiệp hội và đại diện ban lãnh đạo, cán bộ nhân viên của Viện Nông nghiệp Thanh Hóa.
Sơn La: Góp ý kiến dự thảo Luật Cán bộ, công chức (sửa đổi)
Ngày 6/5, Liên hiệp các hội Khoa học và kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) đã tổ chức hội thảo tư vấn tham gia ý kiến dự thảo Luật Cán bộ, công chức (sửa đổi) và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Tham dự hội thảo có đại diện một số sở, ngành của tỉnh.

Tin mới

Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Tiền Giang: Họp mặt và vinh danh trí thức KH&CN
Ngày 20/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Tiền Giang phối hợp Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức họp mặt trí thức KH&CN và vinh danh 2 trí thức được phong hàm Phó Giáo sư, 8 trí thức được công nhận học vị Tiến sĩ.
ĐẨY MẠNH HỢP TÁC VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN TRONG HỆ THỐNG LIÊN HIỆP HỘI VIỆT NAM
Sáng ngày 13/5/2025 tại tỉnh Sóc Trăng, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đã phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Sóc Trăng tổ chức Hội thảo “Xúc tiến hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm hoạt động đối ngoại nhân dân trong hệ thống Liên hiệp hội Việt Nam”.
VUSTA đóng góp cho Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 2013 và Dự thảo Luật KHCN & ĐMST
Dù chỉ sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 2013, đội ngũ trí thức Liên hiệp Hội Việt Nam nhấn mạnh tính cấp thiết và chiều sâu cải cách, từ mô hình chính quyền hai cấp đến quy định cụ thể cấp hành chính, làm rõ vị trí tổ chức chính trị - xã hội...