Lương tâm
Lâu nay chúng ta thường nghe nói nhiều đến người thầy thuốc cần có lương tâm. Vì rằng lương tâm của nghề y gắn liền với sinh mạng của người bệnh. Một thầy thuốc khi bệnh nhân đến xin cứu chữa, nhưng vì người bệnh nghèo, ít tiền, có mâu thuẫn gì đó từ trước với người thầy thuốc, hoặc bản thân thầy còn bận việc riêng tư nhiều lợi nhuận hơn…, mà từ chối người bệnh, hoặc điều trị một cách tắc trách, thì xã hội đánh giá người thầy thuốc đó “không có lương tâm”!
Thuở xưa, lương tâm chỉ được chú trọng đối với những nghề làm “thầy”. Như thầy thuốc, thầy giáo, thầy địa lý… Bởi lẽ những nghề trên đòi hỏi kỹ thuật, không phải ai cũng làm được, người ngoài khó có thể kiểm tra phát hiện những “ác tâm” của họ trong việc làm và quan trọng là nó gắn liền với sinh mạng, sự phát triển, tồn vong của con người. Đối với những nghề trên, lương tâm là đạo đức và tài năng đều phải cao đẹp, tương ứng, hoà quyện vào nhau. Bởi vậy, cùng với tài năng xuất sắc, những người thầy được ca ngợi là danh sư, danh y… đều phải có lương tâm hoàn chỉnh, nghĩa là không thể “thiếu lương tâm”. Người ta đều ý thức được rằng, những người có tài năng bao nhiêu, thì cũng phải có lương tâm cao đẹp tương ứng. Nếu không thì họ sẽ gây ra cho người khác, cho cộng đồng, xã hội tổn thất, đau khổ càng lớn. Như chúng ta đã biết, đạo đức có tính giai cấp, bị chi phối bởi quan điểm sống của từng giai đoạn lịch sử. Còn lương tâm có tính phổ quát hơn, nó thấm đậm sâu sắc tình người. Trước kia, các chiến sĩ cách mạng ta bị kẻ địch bắt bớ, tù đày. Nhiều tên cai ngục rất tàn ác, nhưng cũng có người coi ngục đối xử với tù nhân không đến nỗi nào, nhất là những anh em đau ốm, yếu sức. Những kẻ đó được xem là đã “thức tỉnh lương tâm”.
Đặc điểm thời đại hiện nay là hành vi cá nhân ít nhiều đều có tính xã hội, tính nhân loại, toàn cầu. Chẳng hạn một người vứt rác bẩn, chặt phá cây, săn bắt thú rừng… đều có tác hại, phá hoạt môi trường sống và để không còn hành động trên thì ngoài việc nâng cao ý thức, chấp hành pháp luật, nó còn đòi hỏi mỗi người phải có lương tâm. Ngày nay, lương tâm là yêu cầu cần thiết đối với tất cả mọi nghề, vì xét đến cùng nghề nào ít nhiều cũng đều có tác động đến sinh mạng, cuộc sống của người khác. Tuy nhiên, ở thời kỳ mở cửa, giao lưu, hội nhập, kinh tế thị trường phát triển, cạnh tranh quyết liệt, thì có xu hướng một số cá nhân chỉ nhìn thấy cái trước mắt không coi trọng cái lâu dài, chỉ thấy cái lợi ích vật chất, có tác động tức thời, mà không thấy cái thanh thản, hạnh phúc do lương tâm đem lại. Lấy thí dụ về lương tâm của nghề dạy học. Một số phụ huynh ca thán rằng, họ bắt buộc phải cho con cái đi học thêm, bởi lẽ thầy, cô không giảng, hoặc chỉ giảng qua loa một số kiến thức ở trên lớp, dành lại cho việc dạy ngoài. Học sinh nào không học thêm, sẽ không nắm hết kiến thức, dễ bị điểm kém, kéo theo nguy cơ không được lên lớp, thi hỏng, đó là chưa nói còn bị thầy, cô trù dập nữa! Việc làm trên của một số giáo viên nào đó được xem là “thiếu lương tâm”. Đối với một nghề mà xã hội đòi hỏi cao về lương tâm như nghề dạy học, thì sự trả giá cho việc làm trên là rất đắt đối với người có hành vi “thiếu lương tâm”. Họ sẽ nhận được ở học sinh, phu huynh và nhân dân thái độ coi thường, thậm chí chê bai, khinh rẻ. Họ không còn nhận được sự kính trọng của người khác, niềm tự hào nghề nghiệp của bản thân, thấy rõ nhất sau khi nghỉ hưu và đó là cái mất mát, âm ỉ, dai dẳng đối với họ.
Xã hội ngày nay có xu hướng “luật pháp hoá” hoạt động của con người, nhằm mục đích bảo đảm cho mỗi cá nhân được tự do, bình đẳng công bằng và ngăn ngừa những thiệt hại mà xã hội có thể hứng chịu, vì hành vi của kẻ thiếu lương tâm gây ra. Tuy nhiên, khi đề cao tác dụng của luật pháp, thì đồng thời cũng cần coi trọng việc khơi dậy, phát huy lương tâm của từng cá nhân, để vừa tác động từ ngoài vào với sự giám sát của luật pháp, vừa lại có cả tác động từ trong ra, với sự giám sát của lương tâm. Có thể nói lương tâm là luật pháp xã hội đã trở thành của riêng từng người, là lẽ sống của mỗi người. Trong thực tế có nhiều hành vi con người, mà luật pháp khó giám sát, hoặc không thể giám sát. Ví như việc làm tắc trách của người thầy thuốc, thầy giáo chẳng hạn. Chỉ có lương tâm của bản thân họ mới biết đầy đủ thực chất hành vi mà họ đã làm. Trong trường hợp này, lương tâm trở thành pháp luật của cá nhân, để hướng dẫn, chỉ đạo từng hành vi nà nó cũng là quan toà để lên án, phán xét những hành vi sai trái.
Mỗi con người khi mới lọt lòng, nhờ tiếp thu kinh nghiệm xã hội, nên đã có lương tâm. Người mẹ, trong quá trình chăm sóc, nuôi dạy con, với tất cả tình thương yêu, chính là đã giúp đứa con hình thành lương tâm. Bởi vậy, có thể nói mọi người đều có lương tâm, tuy mức độ khác nhau. Bởi quan niệm ai cũng có lương tâm, ngay cả nhân vật “phù thuỷ” trong các truyện cổ tích dân gian, rất ác độc, chuyên làm hại người khác. Song hắn ta cũng vẫn có tình yêu đối với con hắn đẻ ra. Cho nên trong nhân dân mới sử dụng các cụm từ: “Thiếu lương tâm”, “Đánh thức lương tâm”… Hiện tượng những kẻ có hành vi tội ác, gây chết chóc đau thương cho người khác, đã “tự vấn lương tâm”, “day dứt lương tâm”, nghĩa là cái lương tâm của kẻ đó “trỗi dậy” trở thành quan toà xét xử, buộc tội chính bản thân họ. Thực tế cho thấy, sự lên án của lương tâm thường khắc nghiệt, mạnh mẽ và rất có quyền lực, khiến kẻ bị xét xử luôn lo sợ, kinh hãi, tâm thần bất an, cả trong khi ngủ vẫn bị ám ảnh bằng những giấc mơ.
Quả lương tâm có một sức mạnh kỳ lạ đối với con người. Vì thế, để ngăn ngừa các hành vi phạm tội, cần có biện pháp giáo dục, bồi dưỡng lương tâm đầy đủ, cao đẹp và biện pháp “đánh thức” lương tâm con người. Khi giáo dục, bồi dưỡng, cần coi trọng khâu nhận thức. Có nhà bác học chế tạo ra quả bom nguyên tử đầu tiên, ném xuống hai thành phố nước Nhật, khi biết hàng chục vạn người dân vô tội bị chết thê thảm, vì phát minh khoa học của mình, thì ông ta thấy “day dứt”, “cắn xé” bởi lương tâm. Ông ta thú nhận là không ngờ bom nguyên tử lại sát hại ghê gớm, dã man như thế! Như vậy ngay trí tuệ uyên bác của nhà bác học, cũng vẫn còn thiếu sót về nhận thức, để hình thành đầy đủ lương tâm. Nó đòi hỏi bên cạnh quá trình tư duy, nhất thiết phải có quá trình tưởng tượng phong phú đi liền theo sự dự đoán cần thiết. Vì rằng có người lương tâm chỉ trỗi dậy, khi họ nhận thấy hành vi tội các của bản thân đã gây nên thảm hoạ cho người khác.
Lương tâm hình như nằm sâu kín và phân bố tản mạn khắp trong đầu óc (cơ thể) mỗi người. Bởi vậy, muốn “thức tỉnh” lương tâm, đối với từng chủ thể, hoặc đối với xã hội, thì cần phải qua giai đoạn “tập hợp”, bằng cách phân tích mọi mặt phải, trái của hành vi, đúng sai về nhận thức, gợi lên những cảm xúc, tình cảm tích cực, những hậu quả mà trong tương lai đối tượng của hành vi sai trái phải gánh chịu… Có thế mới hy vọng “đánh thức” được lương tâm.
Tình trạng những hành vi thiếu lương tâm ngày càng tăng. Ví như pha các chất độc hại vào thực phẩm để bán kiếm lời, nạn làm hàng giả, gây ô nhiễm môi trường, cố tình không chấp hành Luật Giao thông gây nên chết chóc đối với người khác, ăn bớt nguyên vật liệu xây dựng…, do đó, một mặt cần xiết chặt kỷ cương, luật pháp, mặt khác cần coi trọng việc bồi dưỡng, đánh thức lương tâm mỗi người, kết hợp tác động hai chiều, ngoài vào, trong ra, thì mới hạn chế được hành vi phạm pháp.
Nguồn: Thế giới trong ta, số 247, 12/2005








