Luật lệ và kiêng kỵ trong văn hóa rượu cần của người Thái
1. Mở đầu
Đã có một số bài viết về rượu cần của người Thái. Đó là những bài viết đề cập đến cách chế biến rượu cần, không gian văn hóa rượu cần của người Thái, v.v... Trong bài viết này chúng tôi nói đến luật lệ và kiêng kỵ trong uống rượu cần của người Thái - một trong những yếu tố cấu thành nét đặc trưng về văn hóa rượu cần của người Thái miền núi Nghệ An. Những luật lệ và kiêng kỵ ở đây chúng tôi lấy dẫn chứng từ khảo sát phong tục uống rượu cần của người Thái nhóm Tày Mương / Tày Chiềng ở vùng Khủn Tinh - Quỳ Hợp. Các nhóm Thái khác ở những vùng khác cũng có một số "biến thể", nhưng cơ bản thì vẫn tương đồng với ở đây.
2. Luật lệ và kiêng kỵ trong uống rượu cần của người Thái
2.1. Luật lệ trong uống rượu cần của người Thái
2.1. 1. Dụng cụ.
a/ Chum rượu (háy lầu).
Chum rượu cần gọi là chùm lầu xả. Giả định là chúng ta đã có một chum rượu cần. Chum rượu cần này thuộc loại "chum khiêng" (háy hám), tức là loại chum rượu cần to, phải hai người khiêng mới nổi. Chum rượu to, uống đông người, đủ các thành phần, làm đủ các nghi lễ cơ bản, dùng uống trong đám cưới, đám tang, tiếp đón khách quý, lễ hội, v.v…, để chúng tôi có thể trình bày các luật lệ và kiêng kỵ ở đây.
b/ Cần/ vòi rượu (bủa lầu).
Cần/ vòi rượu gọi là bủa lầu, được làm từ cây trúc thông lóng, đốt cuối cùng đằng gốc để mắt, dui những lỗ nhỏ để ngăn trấu không cho chảy vào, làm tắc nước rượu. Trúc làm cần/ vòi rượu phải chọn loại trúc già, thẳng, người ta chặt về, làm hoàn thiện, đem bó, phơi trên gác bếp, buộc lá dong lá chuối hoặc mo cau hai đầu để tránh ong vò vẽ vào làm tổ, gây tắc. Khi nào vòi trúc thật khô khén, dẻo, thì đem xuống, dùng uống rượu được. Trước hết đem cần/ vòi trúc rửa sạch, xóc nước, hút nước, kiểm tra xem có thông không, nếu cái nào bị tắc thì dùng que thép thông lại. Một bộ cần/ vòi trúc phải chừng 20 - 25 cái, trong đó có mấy cái phòng bị để thay, mỗi khi có cái bị gẫy, bị tắc, bị vỡ…chẳng hạn. Một chum rượu to người ta cắm khoảng 16, 18, thậm chí 20 cái vòi trúc, tức là số vòi chẵn. Cần/ vòi trúc ban đầu tươi xanh, sau một thời gian chuyển màu vàng óng, rồi cuối cùng là màu vécni trơn bóng.
c/ Nồi nước (mò nặm tủng/ mò tủng lầu).
Nồi dùng để đựng nước khi uống rượu cần gọi là mò nặm tủng/ mò tủng lầu. Nồi này nguyên gốc là nồi vạc đồng to, có quai hoặc không có quai, đặt cạnh chum rượu, về phía dưới (theo quy định trong nhà: "phía dưới" là phía khi ngủ quay chân xuống). Sau này nồi đựng nước có khi được thay bằng thau nhôm hoặc thau nhựa to. Nước dùng để uống rượu cần nguyên sơ là nước suối trong - nhờ khoa học mà sau này người ta biết được là có các chất khoáng, nên rượu cần mới "ngon" và "bổ" như thế. Sau này nước suối không tinh khiết nữa thì người ta dùng nước giếng, nước máy. Khi uống rượu cần thì người ta sẽ đổ nước vào trong chum rượu, nước kết hợp với các chất men trấu ủ trong chum, hòa tan, xẩy ra phản ứng hóa học, theo cách nói của chúng ta ngày nay, tạo nên "rượu cần" màu vàng óng như bia, và nồng như rượu cao độ. Người ta uống cạn đợt này thì lại đổ nước thêm vào, men trấu tiếp tục hòa tan, người ta lại uống đợt khác; cứ thế cho đến khi rượu nhạt mới thôi. Một chum rượu to thì phải uống hàng chục đợt, cho cả trăm người uống, nếu ủ rượu "chuẩn" (đúng quy cách, đúng tiêu chuẩn). Trong quá trình uống rượu cần, người phục vụ (chàm/ nai ke/ nai phóng) sẽ múc nước trong nồi này đổ vào chum, cạn thì người ta lại tiếp nước thêm vào, không để nồi hết nước.
d/ Sừng trâu (phóng lầu / mẻ).
Sừng trâu dùng để đong nước, rót/ đổ nước vào chum. Phía đầu nhọn của sừng có dui một lỗ bằng đầu đũa để rót nước. Người chàm (nai ke/ nai phóng) 1 tay cầm đầu nhọn của sừng, dựng ngược sừng lên, dùng 1 ngón tay bịt lỗ này lại, tay kia cầm gáo nước (sẽ nói ở dưới), múc nước đổ/ rót vào sừng. Một sừng nước đầy là 1 đơn vị đo khối lượng chính của rượu cần, cùng với gáo là đơn vị phụ (sẽ nói sau). Nói "sừng trâu" là nói cái phổ biến, chứ trên thực tế có khi người ta dùng cả sừng bò, sừng bò tót, ngà voi, sừng dê để làm. "Sừng trâu" này gọi là phóng lầu (tức là dụng cụ đong nước rượu chính), và phóng lầu này gọi là mẻ (tức là mẹ, so với gáo là con). "Sừng trâu" cũng dùng để đo thời gian uống rượu cần; một khối lượng nước đầy trong sừng, khi thả ngón tay bịt lỗ ra, sẽ chảy cạn trong một thời gian xác định. Đó là thời gian quy định cho 1 tuần rượu (ty lầu), nó áp dụng cho tất cả mọi người, nó công khai và công bằng với tất cả mọi người.
đ/ Gáo (bươi/ nỏng/ lực).
Gáo là để múc nước vào sừng/ chum. Gáo nguyên sơ làm bằng ống tre nứa, sao cho cứ 3 gáo thì đầy 1 sừng. Sau này có gáo dừa, gáo ống bơ, gáo nhựa, thì người ta (chàm/ nai ke/ nai phóng) cũng cứ rót/ đổ 3 lần vào sừng mới coi là được, mặc dầu có khi không cần đến 3 lần. Gáo cũng gọi là nỏng tức là dụng cụ đong nước rượu phụ (so với sừng), và gọi là lực (con) so với sừng là mẹ. Có khi gáo cũng sẽ được dùng để múc nước rót/ đổ thẳng vào chum, với tư cách là nỏng tức là đơn vị đo khối lượng nước rượu phụ (theo quy định của tuần rượu).
2.1.2. Người phục vụ (chàm / nai ke / nai lầu).
Người này do chủ nhà hoặc những người già cả trong cuộc rượu lựa chọn trong hàng con cháu, rể, là người bậc dưới, trong số những người hiện diện, để phục vụ cho việc uống rượu. Cho nên có thể nói chàm/ nai ke/ nai phóng là người đáng tự hào nhất, vì được chọn là sự công nhận phẩm chất và năng lực của cộng đồng. Người này phải là người nhẹ nhàng, biết ăn nói, thông thạo luật lệ uống rượu cần, tốt vía, đáng tin cậy, theo nhìn nhận của chủ nhà và người già. Người này phải biết mời mọi người ngồi vào quanh chum rượu, chia cặp uống, vít cần rượu xuống cho người ta cầm, đỡ cần rượu khi người ta uống xong, nắm được luật lệ đong/ rót rượu, rõ ràng, công khai, không thiên vị, tức là phải thực thi nhiệm vụ tận tụy, đúng luật. Dưới góc độ này thì chàm/ nai ke/ nai phóng là người "to" nhất, vì nắm và thực thi luật. Ngoài ra, người này giỏi hát dân ca Thái thì càng tốt, anh ta (với người Thái nhóm Tày Mương/ Tày Chiềng là nam) có thể hát bài mời rượu, bài đong rượu, làm cho cuộc uống rượu cần càng đậm đà phong vị dân tộc; anh ta cũng có thể pha trò khi cần thiết để cuộc uống rượu cần càng vui vẻ, hứng khởi.
2.1.3. Quy trình.
a/ Phái lầu / xé hỉnh lầu.
Phái lầu/ xé hỉnh lầu là bài cúng rượu, nói rõ lý do tại sao uống rượu cần, mời tổ tiên nội ngoại đến uống rượu, để phù hộ độ trì cho con cháu, xua đuổi tà ma, đen đủi, bệnh tật, v.v…, mang đến mùa màng bội thu, gà vịt đầy chuồng, trâu bò đầy bãi, v.v… cho gia đình. Bài cúng rượu có vần điệu, dài hàng trăm câu, kết thúc bằng lời lẽ nhẹ nhàng: ông bà, cha mẹ uống rượu xong thì ăn trầu, rồi về nhà (bàn thờ) mà trông coi nhà cửa, con cháu, v.v…, "chúng con" xin được uống rượu theo các ông bà, cha mẹ…Bài cúng rượu này do chủ nhà đọc, ăn mặc chỉnh tề, không biết thì phải nhờ Mo, nhờ người già. Tùy cuộc rượu mà có thể phải đọc bài cúng rượu thật trang trọng (đám tang, đám cưới, tiếp khách quý, v.v…), nhưng cũng có thể chỉ đọc tóm tắt, thậm chí "đọc nôm" (đối với những cuộc vui, v.v…).
b/ Thứ tự uống (pắn lầu).
Cúng rượu xong chừng một lát thì chủ nhà "nếm" rượu, thấy đã uống được, tức rượu đã ngấm, thì mời mọi người ngồi vào quanh chum rượu. Những người có tuổi, khách quý, thông gia, v.v. được mời trước, lớp trẻ mời sau. Đàn ông ngồi chiếu, đàn bà ngồi ghế mây tròn. Chàm/ nai phóng/ nai ke vít vòi trúc xuống cho mọi người cầm lấy. Khi tất cả vòi rượu đã có người cầm, người ta bắt đầu chia cặp (pắn lầu) để uống, hoặc chia đôi, hoặc uống cả cùng một lúc. Việc chia này do chủ nhà cùng những người già trong cuộc quyết định, căn cứ vào "vị trí" (tuổi tác, vai trò của từng người liên quan đến cuộc rượu này, v.v.) của từng người. Chia người nào uống với ai, uống trước hay uống sau xong, thì quy định uống bao nhiêu sừng, bao nhiêu gáo, cách đong rượu như thế nào (xem dưới). Chàm/ nai phóng/ nai ke nhớ để thi hành, mời mọi người uống.
c/ Cách uống/ quy định uống.
c1/ Quy định uống mấy sừng, mấy gáo (về khối lượng).
Chia cặp xong, người ta mới quy định uống bao nhiêu (mấy sừng, mấy gáo), trên cơ sở xem chum to hay nhỏ, người ít hay nhiều, già hay trẻ, đàn bà hay đàn ông, v.v... làm sao uống cho "vừa"…Có mấy cách quy định sau:
- Uống đủ.
Ví dụ mỗi cặp uống 1 sừng chẳng hạn, thì trong khoảng thời gian đã quy định (xem dưới đây), phải uống cho đủ. Uống đủ, kịp thời gian, thì hoàn thành, buông vòi, đến lượt cặp khác.
- Uống thiếu (xặm lầu / bị phạt).
Nếu uống thiếu (không hết 1 sừng chẳng hạn), thì phải uống cho hết (gọi là xặm lầu, hoặc phải uống thêm phần rượu phạt, ví dụ phải uống thêm 1 gáo chẳng hạn, theo quy định).
c2/ Trước sao, sau vậy (cỏn chơ, lắng chịa).
Căn cứ vào cặp uống trước (đầu tiên) để lượng sức cho tất cả mọi người. Ví dụ cặp này uống được 1 sừng 1 gáo chẳng hạn, thì các cặp sau cũng phải uống như thế, nếu uống không hết thì phải uống thêm (xặm lầu). Cho nên người ta hay nói "muốn uống rượu nhiều thì uống cho chậm", uống chậm, không kịp thì phải uống thêm rượu phạt.
c3/ Theo người uống nhiều hơn (cồn xiều).
Cũng có khi căn cứ vào cặp nào uống nhiều hơn, không kể uống trước hay sau. Ví dụ có cặp uống được 1 sừng 2 gáo chẳng hạn, thì tất cả các cặp khác cũng phải uống cho đủ như thế. Quy định như vậy vì người ta cho rằng như vậy mới công bằng, không ai được uống nhiều/ ít hơn ai.
d/ Cách đong nước/ rượu (về thời gian).
Cách đong nước/ rượu liên quan đến thời gian, mà thời gian lại liên quan đến khối lượng rượu, cho nên cách đong nước/ rượu là rất quan trọng. Có mấy cách đong nước/ rượu như sau:
d1/ Múc đầy sừng - rót cạn - múc đầy - buông cần (tắc tím - nhom hành - tắc tím - vang bủa).
Đây là cách uống chậm. Chia cặp, quy định uống xong, người uống chuẩn bị, chàm (nai ke/ nai phóng) mời: "Lầu chàm mơi!"(Chàm xin mời rượu), thì người uống nói: "Hẹ nơ chàm nơ!"(Uống rồi nhé chàm ơi!), là để chàm biết mà bắt đầu "tính thời gian"(bắt đầu múc nước vào sừng). Chàm sẽ múc 3 gáo vào sừng cho đầy (tắc tím), rồi thả cho nước chảy qua lỗ sừng cho hết (nhom hành), rồi lại múc đầy (tắc tím), và hô: "Lầu nhom phỏi nhom!" (Xin dừng lại!), để báo cho người uống biết là thời gian đã hết. Người uống dừng, chàm bắt đầu đổ sừng nước vào chum để xem người ta uống được bao nhiêu, có đủ theo quy định hay không. Nếu uống đủ thì đỡ vòi rượu cho người ta buông cần (vang bủa), nếu không đủ thì xử lý như trên đã nói.
d2/ Múc đầy sừng - rót cạn - buông cần (tắc tím - nhom hành - vang bủa).
Đây là cách uống vừa, không nhanh không chậm. Chàm thao tác múc đầy sừng, rót cạn, và hô cho người uống dừng lại, không múc đầy lần thứ 2 như mục d1 nữa. Như vậy là đã rút thời gian lại một tý, cũng có nghĩa là đã uống nhanh hơn trước.
d3/ Múc đầy sừng trước - rót và múc vào sừng một gáo - buông cần (chỉa phóng nhom hành - pốc pạc).
Đây là cách uống nhanh. Chàm đã múc nước đầy sừng mới hô mời uống: "Lầu chàm mơi!" (Chàm xin mời rượu)! - đây là điểm khác với mục trên (d2). Người ta bắt đầu uống thì chàm thả cho sừng nước chảy, nước đang chảy thì chàm lại múc 1 gáo thêm vào sừng - đây cũng là điểm khác nữa so với mục d2, khi sừng rót cạn thì chàm hô dừng. Như vậy, cách uống này rút nhanh 2 lần.
d4/ Múc đầy sừng trước - rót cạn - buông cần (chỉa phóng nhom hành).
Đây là cách uống rất nhanh. Bước 1 giống như mục d3, nhưng bước 2 thì không có thao tác đổ thêm vào sừng 1 gáo, tức là rút gọn thời gian hơn. Cách uống này (d4) cũng như cách trên (d3) là dùng cho các tuần rượu "uống vui", tức là trong không khí không đòi hỏi "nghiêm túc" lắm, ví dụ người uống toàn là người quen trong bản, hoặc toàn thanh niên, hoặc không phải rượu cúng lễ gì, v.v.
2.2. Kiêng kỵ trong uống rượu cần của người Thái.
2.2.1. Không đặt chum đúng vị trí.
Như trên đã nói, uống rượu cần là phải có lý do - và uống rượu cần thì phải cúng mời tổ tiên (phái lầu/ xé hỉnh lầu), cho nên, không phải bạ chỗ nào cũng đặt chum rượu cần được. Thông thường thì chum rượu cần phải được đặt ở giữa gian ngoài (hòng nọc/ hòng quản) của nhà sàn - chỗ này gọi là hông lầu/ hông ke. Đó là các trường hợp đám tang, đám cưới, lễ hội, tiếp khách, v.v… Chỉ có trường hợp cá biệt như làm lễ buộc vía cho cha mẹ, cho cô dâu, cho con cái, v.v... thì người ta mới đặt chum rượu ở gian trong (hòng cuống), cạnh vách ngăn buồng (tín xuồm = chân buồng), phía trên bếp lửa một chút. Trái với điều này là kiêng, có thể gặp tai họa vì tổ tiên sẽ không chấp cho và sẽ trừng phạt con cháu là đã gây ra sự lộn xộn trong nhà, không còn thể thống gì nữa (theo quan niệm của người ta).
2.2.2. Không cúng rượu (phái lầu/ xé hỉnh lầu).
Tổ tiên phải được uống rượu cần trước, rồi mới đến lượt con cháu, nếu không cúng rượu (phái lầu/ xé hỉnh lầu) thì đương nhiên là tổ tiên trách, tổ tiên sẽ không phù hộ độ trì, con cháu sống chết gì mặc kệ, tà ma gì xông vào nhà cũng không để ý, v.v... Con cháu uống rượu cần (và cả có miếng gì ngon) mà không mời tổ tiên là bất nghĩa, là láo, là sai to!
2.2.3. Ngồi lộn xộn.
Thường thì đàn ông ngồi phía trên (theo hướng khi nằm quay đầu lên), đàn bà ngồi phía dưới; đàn ông ngồi phía ngoài (theo hướng cửa chính vào nhà), đàn bà ngồi phía trong; người già ngồi phía trên, người trẻ ngồi phía dưới; bậc anh ngồi phía trên, bậc em ngồi phía dưới, trái với những cái này là kiêng - vì bản mường có tôn ty trật tự, trong nhà, khi uống rượu cũng phải như vậy, làm sai là tạo điều kiện cho sự hỗn loạn, cho cái xấu nẩy sinh, không ai muốn, nhất là chủ nhà.
2.2.4. Vắt chéo vòi rượu (hắn bủa).
Chỉ có chum rượu cúng vía cô dâu và chàng rể mới được phép vắt chéo hai vòi rượu cần - nó gợi sự quấn quýt, ân ái của đôi trai gái, của đàn ông và đàn bà, nên tuyệt đối các cuộc uống rượu cần khác không cho phép vắt chéo vòi rượu như vậy - nó báo hiệu sự loạn luân, quần hôn sắp xẩy ra, tổ tiên "giám sát" điều này, loài người đã phải trải qua biết bao thảm cảnh đau lòng về giới tính, quyết không dung tha!
2.2.5. Bất chấp lời chàm (nai ke/ nai phóng).
Chàm là người nắm luật (uống rượu), thực thi luật, bất chấp lời chàm - tức là không thi hành luật, chống lại luật, đương nhiên phải bị trừng trị (phạt), ví dụ như chàm phân cặp uống mà không theo, chàm hô "dừng" mà vẫn uống, chàm mới đong được 1 sừng mà cãi là đã uống 2 sừng, v.v…
2.2.6. Chòng ghẹo nhau khi uống rượu.
Đàn ông đàn bà, con trai con gái chòng ghẹo nhau, ngả ngớn khi uống rượu cần là không đúng chỗ, là trêu ngươi các bậc tổ tiên, người già và những người xung quanh, ắt phải bị trừng trị. Người ta có quyền vui vẻ, nhưng phải có tôn ty trật tự, đúng luật rượu cần, đúng luân lý, hợp phong tục, tôn trọng người khác. Vi phạm thì bị lên án, bị đuổi khỏi cuộc rượu cần, v.v…
2.2.7. Người phục vụ (chàm/ nai ke/ nai phóng) không làm đúng luật.
Người ta đã trao nhiệm vụ, trao luật và niềm tin vào chàm, thì chàm phải làm cho đúng, cho hay. Nếu chàm làm sai, thiên vị, châm chước người này, ngặt với người kia, qua loa đại khái, tức là làm không đúng chức trách, không tận tụy, vô nguyên tắc, thì đương nhiên người ta sẽ "phạt" chàm - tức là trách mắng bằng lời, đuổi ra, hoặc phải uống một lượng "rượu phạt" nào đó, và lần sau thì khó mà được cử làm chàm nữa. Cho nên nói chàm là người rất to nhưng cũng rất nhỏ là vì vậy.
2.2.6. Uống quá say, cãi nhau, gây gổ nơi chum rượu.
Đương nhiên như vậy là không tốt, làm mất trật tự nơi cuộc rượu, làm hỏng việc trọng đại của gia chủ, làm mất ý nghĩa của cuộc rượu, làm tổ tiên phật ý, gây hậu họa khôn lường, có thể mang đen đủi đến cho gia đình, v.v... phải bị đuổi ra khỏi cuộc rượu, cùng với những lời trách mắng, và lần sau khó mà được người ta mời uống rượu, nếu không hứa là chấp hành luật rượu cần bình thường như mọi người.
Trên đây là một số luật tục, sự kiêng kỵ trong uống rượu cần của người Thái, có thể là chưa hết, nhưng là những cái cơ bản nhất.
3. Kết luận.
Trải qua lịch sử hàng ngàn năm, người Thái đã sáng tạo ra rượu cần (cũng như một số dân tộc khác ở Đông Nam Á), và có luật lệ - kèm theo là những điều kiêng kỵ trong uống rượu cần. Luật lệ và kiêng kỵ đảm bảo cho việc uống rượu cần có văn hóa, đúng mục đích, tạo ra cuộc sống trật tự, ổn định, vui tươi trong bản mường, tránh được những điều không tốt có thể xẩy ra. Luật lệ và kiêng kỵ này được mọi người chấp nhận, làm theo, tự nhiên như là nếp sống của con người, coi như là chuẩn mực đạo đức của xã hội Thái đã bấy lâu nay.
Gần đây, kinh tế thị trường đã tác động vào đời sống bản mường, có mặt tốt mặt xấu, trong đó phong tục uống rượu cần của đồng bào cũng bị ảnh hưởng ít nhiều - có lúc có nơi người ta bỏ qua nhiều khâu trong nghi thức, uống rượu cần một cách lộn xộn, uống cốt cho say, hoặc gây gổ, cãi lộn, v.v…
Cần phải giữ lấy những nét đẹp văn hóa trong uống rượu cần, trong đó có những luật lệ và những kiêng kỵ phải làm đúng, phải tránh. Phải tạo ra một không gian văn hóa rượu cần để mọi người được "tắm" trong đó, như cha ông chúng ta đã làm, đã nuôi dưỡng ta thành người như hôm nay. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề lý thú này trong một dịp khác./.
Tài liệu tham khảo
1. Lường Song Toàn, Văn hóa rượu cần, Văn hóa Hòa Bình.
2. Trần Thức Liên, Uống rượu mừng tiếng sấm đầu năm, Văn hóa Nghệ An, số 1/2003.
3. Sầm Văn Bình, Lời mời ông Chàm, Nghệ An - Dân tộc - Miền núi số 12/11/2006.
4. Thái Tâm, Rượu cần, Nghệ An - Dân tộc - Miền núi số 4/2/2007.
5. Hồ Thủy, Nét đẹp trong văn hóa rượu cần của người Thái ở Phủ Quỳ (xưa), Khoa học Xã hội & Nhân văn Nghệ An, số 4 tháng 12/ 2009, trang 70-72.