Luật KH&CN cần quan tâm tới hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của các hội KH&KT
Tiếp theo ý kiến này, bài viết dưới đây sẽ luận bàn thêm về vai trò của một bộ phận trong khu vực xã hội dân sự, đó là các hội khoa học và kỹ thuật (KH&KT), thông qua thực tiễn hoạt động của Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Hải Dương.
Từ thực tiễn hoạt động của Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Hải Dương
Với tư cách là người hoạt động trong tổ chức hội KH&KT, tôi chia sẻ sự đồng tình với những ý kiến đề xuất của tác giả Vũ Cao Đàm về việc Luật KH&CN cần quan tâm tới khu vực xã hội dân sự trong bài viết đăng tải trên Tạp chí Hoạt động Khoa học số tháng 8.2008: “Quan hệ giữa Nhà nước và xã hội dân sự trong Luật KH&CN”. Trong bài viết này, tôi xin đề xuất một số ý kiến dưới góc nhìn của một người hoạt động trong Liên hiệp các Hội KH&KT ở một địa phương.
Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Hải Dương (Liên hiệp Hội) là một tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp, đồng thời là thành viên của xã hội dân sự trên địa bàn tỉnh. Thực hiện Quyết định số 22/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong những năm qua, các hội thành viên của Liên hiệp Hội đã và đang đẩy mạnh các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội. Những hoạt động đó thể hiện mối quan hệ xã hội dân sự giữa Liên hiệp Hội với các cơ quan quản lý nhà nước của tỉnh.
Có thể kể đến một số kết quả bước đầu đã đạt được trong khuôn khổ các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp Hội: Tham mưu cho Tỉnh uỷ, UBND tỉnh ban hành một số Quyết định, Chỉ thị, Hướng dẫn về hoạt động hội, trong đó có Chỉ thị số 43/CT-TU ngày 24.5.2004 của Tỉnh uỷ “về đẩy mạnh hoạt động của Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Hải Dương”. Phối hợp với Sở Nội vụ tổ chức Hội thảo: “Thực trạng và đề xuất giải pháp đào tạo, bồi dưỡng nguồn lực KH&CN và trọng dụng nhân tài trong giai đoạn mới”. Tổ chức Hội nghị tư vấn góp ý cho Dự thảo quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh giai đoạn 2006-2020; góp ý cho các dự thảo văn kiện trình Đại hội Đảng các cấp, các dự thảo Luật Phòng chống tham nhũng, Luật Tố tụng hình sự, Luật Giáo dục, Luật Đất đai, Luật Giao thông. Tổ chức Hội thảo góp ý cho Luật Công nghệ thông tin, tư vấn góp ý cho Quy hoạch Bưu chính viễn thông của tỉnh đến năm 2010 và tầm nhìn 2020; góp ý cho kế hoạch KH&CN của tỉnh đến năm 2010; tham gia góp ý cho Dự thảo Luật về Hội; tư vấn góp ý Dự thảo đề án: “Đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục và xây dựng xã hội học tập đến năm 2010 tỉnh Hải Dương”. Phối hợp với Hội Luật gia, Ban Dân số và kế hoạch hoá gia đình tổ chức hội thảo về tình hình phát triển dân số ở Hải Dương. Dự thảo, trình và được UBND tỉnh phê duyệt Quyết định ban hành Quy định xét tặng Giải thưởng KH&CN Côn Sơn - Hải Dương; Quyết định tổ chức các Hội thi sáng tạo kỹ thuật tỉnh Hải Dương lần thứ III (2002-2003), lần thứ IV (2004-2005) và lần thứ V (2006-2007); tham gia phản biện công trình nghiên cứu Địa chí Hải Dương; phản biện Đề án Quy hoạch tổng thể khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc giai đoạn 2007-2010 và đến năm 2020...
Nhìn chung, hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp Hội đã ngày càng rõ nét và mang lại hiệu quả thiết thực. Tuy nhiên, hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội mang tính độc lập của Liên hiệp Hội theo tinh thần Quyết định 22/2002/QĐ-TTg vẫn còn những vướng mắc; nhiều cấp, nhiều ngành chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của các hoạt động này trong xây dựng và thực hiện các dự án phát triển. Mặt khác, kỹ năng, năng lực thực tiễn của các chuyên gia trong Liên hiệp Hội còn hạn chế, thiếu chủ động nên chưa tạo được niềm tin lớn đối với các cơ quan sử dụng tư vấn. Năng lực vận động chính sách cũng chưa được chú ý đúng mức trong hoạt động tư vấn của Liên hiệp Hội.
Nguyên nhân của các hạn chế trên là do Liên hiệp Hội được hình thành muộn hơn so với các tổ chức chính trị - xã hội khác, có hệ thống tổ chức mang tính đặc thù, do vậy còn thiếu kinh nghiệm hoạt động. Bên cạnh đó, lãnh đạo một số cấp hội còn thiếu chủ động trong việc triển khai nhiệm vụ. Mặt khác, việc thể chế hoá nhiều Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về những vấn đề liên quan đến KH&CN và hoạt động của Liên hiệp Hội còn thực hiện chậm hoặc không được rõ ràng, hoặc không đảm bảo tính khả thi trong thực tế, đã tạo ra những rào cản không đáng có trong hoạt động của Liên hiệp Hội.
Quy định về hoạt động của hội KH&KT trong Luật KH&CN và kiến nghị
Trong Luật KH&CN có 4 điều liên quan đến hoạt động của các cá nhân trong khuôn khổ các hội KH&KT.
Điều 6về “Trách nhiệm của Nhà nước đối với hoạt động KH&CN”, Khoản 1, điểm d quy định: “Đẩy mạnh ứng dụngkết quả hoạt động KH&CN; phát triển dịch vụ KH&CN; xây dựng và phát triển thị trường công nghệ; khuyến khích hoạt động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, phổ biến tri thức KH&CN và kinh nghiệm thực tiễn; tạo điều kiện thuận lợi cho các hội KH&CN thực hiện tốt trách nhiệm của mình”.
Điều 7về “Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân đối với hoạt động KH&CN”, trong đó, quy định: “Các hội KH&CN cótrách nhiệm tổ chức, động viên các thành viên tham gia tư vấn, phản biện, giám định xã hội và tiến hành các hoạt động KH&CN”.
Điều 17về “Quyền của cá nhân hoạt động KH&CN” đã quy định một số quyền cho các cá nhân hoạt động KH&CN,trong đó có quyền: “Tham gia tổ chức KH&CN, hội KH&CN; tham gia hoạt động đào tạo, tư vấn, hội nghị KH&CN; góp vốn bằng tiền, tài sản...”.
Điều 47về “Khuyến khích hợp tác quốc tế về KH&CN”, Khoản 1 quy định: “Tổ chức KH&CN, cá nhân hoạt độngKH&CN của Việt Nam được nhận tài trợ, tham gia tổ chức KH&CN, hội KH&CN, tham gia hoạt động nghiên cứu, đào tạo, tư vấn, hội nghị KH&CN của tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài; hợp tác thực hiện nhiệm vụ KH&CN của Việt Nam ở nước ngoài”.
Qua các điều khoản rải rác trên đây, Luật đã quy định: Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho hội KH&KT (Điều 6); trách nhiệm của hội (Điều 7); quyền các cá nhân được tham gia hoạt động của hội (Điều 17) và được nhận tài trợ từ các hội KH&CN ở nước ngoài (Điều 47). Rõ ràng, các quy định đó vừa phân tán, vừa chưa đầy đủ. Vì vậy, chúng tôi cho rằng: Để nâng cao vai trò tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp các Hội KH&KT, góp phần đẩy mạnh mối quan hệ giữa xã hội dân sự với cơ quan quản lý nhà nước về KH&CN, Luật KH&CN cần phải có những điều khoản riêng dành cho việc tổ chức và hoạt động của các hội KH&KT, trong đó cần quan tâm đến một số vấn đề cụ thể sau:
1) Đảm bảo cho mọi cá nhân hoạt động trong lĩnh vực KH&CN được quyền bình đẳng trong việc thành lập các hội KH&KT.
2) Tạo điều kiện cho Liên hiệp các Hội KH&KT được củng cố và phát triển về tổ chức và hoạt động với phương châm hướng về cơ sở: Phát triển các hội thành viên, các hội viên chuyên ngành; mở rộng các cơ sở tư vấn, các trung tâm kỹ thuật, đào tạo, chuyển giao công nghệ; phát triển tổ chức hội chuyên ngành cấp huyện, xã, thu hút ngày càng đông trí thức trẻ, trí thức trong các cơ quan doanh nghiệp… tham gia hoạt động hội.
3) Tiếp tục hoàn thiện và xây dựng cơ chế phối hợp giữa Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh với các tổ chức chính trị - xã hội, các sở, ban, ngành và UBND các huyện, thành phố thuộc tỉnh trong việc liên kết 4 nhà, làm tốt nhiệm vụ chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, phản ánh đúng và kịp thời tâm tư, nguyện vọng của đội ngũ trí thức KH&CN trong tỉnh với cấp uỷ Đảng và chính quyền trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.
4) Tăng cường cơ sở vật chất cho Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh, đảm bảo đây là nơi hội tụ trí thức, điều hoà phối hợp và có điều kiện hỗ trợ hoạt động của các hội thành viên (ở các nước có nền khoa học tiên tiến, các hội KH&KT với tư cách là các tổ chức phi vị lợi - non-profit organization đều có quyền và nhiều cơ hội được nhận tài trợ thông qua các dự án từ các nguồn khác nhau, trong đó có cả nguồn tài trợ của các chính phủ).
Kết luận
Xã hội dân sự ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội nói chung và trong hoạt động KH&CN nói riêng. Do đó, giải quyết tốt mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước và Liên hiệp các Hội KH&KT sẽ góp phần phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương nói riêng và của cả nước nói chung. Với tư cách là nơi thể hiện tiếng nói của lực lượng KH&CN trong xã hội dân sự, hoạt động của các hội KH&KT cần được bảo vệ, có sự đầu tư nhất định để phát triển, được tạo hành lang pháp lý để hoạt động, cụ thể ở đây là Luật KH&CN.








