Luận bàn về dầu cá
Thế nhưng kết luận của một công trình nghiên cứu vừa mới thực hiện ở Anh Quốc lại gây nên tranh luận: sau 5 tháng theo dõi 65 nhi đồng được cho dùng thêm dầu cá bổ sung tại trung tâm chăm sóc trẻ em (ở Durham, Vương quốc Anh) bà Medeleine Portwood, trưởng ban nghiên cứu về tâm lý giáo dục, đã phấn khởi ghi nhận: “Các em đã có những tiến bộ trong khả năng tập trung tinh thần cùng diễn đạt ngôn ngữ tương đương với những tiến bộ mà nhóm đối chứng chỉ có thể đạt được trong thời gian bình thường phải mất 9 tháng; một vài em bé hai tuổi trước kia chỉ biết có 25 từ ngữ rời rạc, giờ đây đã có những khả năng nói được những câu trọn vẹn nhờ vào chế độ dinh dưỡng bổ sung dầu cá omega-3 với dầu anh thảo omega-6 và omega-9 nữa”.
Đây không phải là vấn đề gì mới lạ: từ hơn nửa thế kỷ rồi, người ta đã biết là cá cùng dầu cá đều có tác dụng lớn lao trong việc bảo vệ sức khoẻ cho con người. Có điều nên để ý: các khuyến cáo về dinh dưỡng thường hay có nội dung không hoàn toàn giống nhau; lại thêm trở ngại ở chỗ trong cuộc sống thực tế, không riêng trẻ em mà nhiều người lớn đều có thói quen ăn uống sao cho khoái khẩu, phần đông đều ngán ngại những món có mùi vị không mấy hấp dẫn, nên không mấy ai ham dùng thêm dầu cá bổ sung - quả thật là thứ chẳng ngon miệng chút nào…
Dĩnh dường cùng vai trò của các vi-dưỡng chất quả thật không phải là vấn đề đơn giản. Từ hơn chục năm trước đây, Jean Carper, tác giả cuốn sách: “Food-Your miracle medicine” tức Thực phẩm - dược phẩm kỳ diệu (NXB HarperCollins, 1993) cũng đã đề cập tới một công trình nghiên cứu của trường Y khoa Galveston, thuộc viện ĐH Texas, Hoa Kỳ, cho biết một chế độ dinh dưỡng bất toàn, dù chỉ thiếu một chút chất kẽm cũng đã có tác hại tới chức năng của não bộ, chủ yếu là ký ức. Một khi người phụ nữ vốn không hấp thu đủ lượng kẽm cần thiết nhưng sau nếu được bổ sung chất này thì có thể cải thiện khả năng ghi nhớ tới 12% đối với các từ ngữ và 17% đối với các hoạ tiết.
Một giáo sư có danh tiếng tại viện ĐH London là A.E.Bender đã giải thích: “Con người cổ đại tiến hoá trước hết ở những vùng đất ven biển, ven sông nhờ có sẵn tôm cá cung cấp nhiều chất liệu tối cần cho sự phát triển não bộ”.
Bằng chứng hiển nhiên: giống người Homo sapienstrước kia đã mở đường đi lên con đường tiền hoá nhờ việc săn bắt các loài vật và hái lượm các thứ rau quả. Xứ Nhật Bản hiện đại vẫn được coi như một phòng thí nghiệm sống vì cho tới 100 năm về trước, dân Nhật vẫn theo một chế độ dinh dưỡng rất gần con người cổ xưa - ít ăn thịt và mỡ béo nhưng ăn rất nhiều cá và rau quả - nhờ vậy tính theo con số bình quân thì người Nhật ít khi bị đau tim, ít người phì mập, ít khi mắc bệnh ung thư phổi và ung thư vú hơn người dân các đại lục châu Âu và châu Mỹ…
Các công trình nghiên cứu về thổ dân Eskimo ở Greenland cũng cho thấy là những acid béo thuộc loại omega-e (vốn có nhiều trong dầu cá và các thứ thuỷ hải sản) có khả năng bảo vệ cho thổ dân Eskimo trước nguy cơ mắc các chứng bệnh tim mạch.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy không phải là tất cả các nhà dinh dưỡng học đều có cùng một quan điểm về tác hại của chất béo cũng như tác dụng thuận lợi của dầu cá. Kết quả một công trình nghiên cứu được coi là “dài hơi” và “có tầm cỡ” vào bậc nhất từ trước tới nay (kéo dài trong 8 năm với kinh phí 415 triệu Mỹ kim - thực hiện trên 49.000 phụ nữ hậu mãn kinh, tuổi từ 50 tới 79 - vừa đưa ra kết luận được công bố vào đầu tuần tháng 2/2006 trên tờ báo rất có uy tín của Hiệp hội Y học Hoa Kỳ (Journal of the American Medical Association) lại cho thấy là chế độ dinh dưỡng giảm béo xem ra chẳng có mấy hiệu quả trong việc phòng ngừa các chứng bệnh tim mạch hay ung thư cho phụ nữ cao tuổi. Rất có thể là đa số các phụ nữ làm đối tượng nghiên cứu trong trắc nghiệm kể trên đã bắt đầu hạn chế chất béo quá muộn (vào lớp tuổi trên 60) nên không còn cho thấy được những tác động cùng hiệu quả hiển nhiên như các đối tượng còn trẻ.
Trong khi chờ đợi kết luận của những công trình nghiên cứu bao quát và thấu đáo hơn, tốt hơn hết là con người nên có thái độ thận trọng trong vấn đề dinh dưỡng. Chẳng phải là chìa khoá vạn năng và độc nhất mở đường tới sự khang kiện và vô bệnh; chế độ dinh dưỡng cần phải được thường xuyền phối hợp cùng sự vận động thể lực và phòng - trị bệnh thích hợp cho từng lớp tuổi. Có điều cần ghi nhớ lờn răn dạy của biết bao thế hệ ông bà chúng ta “ Bệnh tòng khẩu nhập” ( Bệnh theo cửa miệng mà vào tấm thân) - mà một trong mấy kẻ dẫn đường hấp dẫn nhất, ác hại nhất cho bệnh tật tìm vào tấm thân chính là các loại mỡ động vật.
Nguồn: Khoa học phổ thông (chuyên đề), 4/2006, tr 33-34








