“Lòng tham là cái bắt đầu của tất cả mọi thứ“
Với cuốn bestseller “Kinh tế học về Thiện và Ác”, lúc đầu xuất bản ở Cộng hòa Séc rồi được dịch ra nhiều thứ tiếng, nhà kinh tế học và cố vấn chính trị Séc Tomás Sedlácek đã phá vỡ các giới hạn và hình mẫu chuyên ngành của mình khi ông bóc trần sự bám rễ kinh tế vào lịch sử văn hóa loài người. Từ 2001 đến 2003 ông thuộc bộ tham mưu của Tổng thống Séc thời đó Václav Havel. Ông này đánh giá cao “cách nhìn mới, không bị qúa khứ bốn thập niên thời trước đè nặng của Sedlácek“. Cho đến 2006 Sedlácek tham vấn cho Bộ trưởng tài chính Séc trong việc phân tích, mổ xẻ để củng cố ngân sách và cải cách hệ thống thuế, lương hưu và y tế. Phần lớn các nhà chính trị, theo Havel, cố tình hay vô tình chấp nhận luận thuyết Mác xít về hạ tầng kinh tế và thượng tầng tinh thần. Trái lại trong cuộc du ngoạn triết lý của mình qua lịch sử văn hóa và kinh tế Sedlácek lật ngược trật tự thứ bậc này. Với ông trong toàn bộ môn kinh tế học, cuối cùng thì vấn đề vẫn chỉ xoay quanh là chúng ta phải sống như thế nào. Tờ “Yale Economic Review-Tạp chí kinh tế Yale“ xếp Sedlácek vào “Five Hot Mind in Economics-Năm tư tưởng sống động trong kinh tế học“. Nay thì Sedlácek là Chủ nhiệm kinh tế học quốc dân của Ngân hàng lớn SOB của Séc, Ủy viên Hội đồng kinh tế quốc gia Séc và là giáo sư tại Đại học Charles Praha.
Ngay khi cuốn sách của ông được dịch ra tiếng Đức, nó luôn đứng trong bảng bestseller, ở Praha đã biến thể cuốn sách thành một vở kịch và nó đã gây tiếng vang lớn. Ngay từ 1987, ở cuốn phim “Wall Street” của Oliver Stone, con cá mập của thị trường chứng khoán Gekko đã nói câu nêu quy luật cuộc đời nhưng đầy khiêu khích của neoliberalism-chủ nghĩa tự do mới: “Lòng tham là thiện“. Nhưng cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản tài chính đã quy gọn thói tham về một trong những tội đáng chết nhất. Từ lịch sử loài người xa xưa nhất ta biết, lòng tham luôn có hai mặt: nó là động cơ thúc đẩy tiến bộ, nhưng đồng thời cũng lại là nguyên nhân sụp đổ, luôn không hài lòng, càng ngày càng ham muốn nhiều hơn có vẻ như là một hiện tượng tự nhiên, thiên bẩm, và là trái tim của nền văn minh của chúng ta. Tội lỗi gốc của cặp người đầu tiên Adam và Eva ở Thiên đường cũng là hệ quả của lòng tham. Lòng tham và hiếu kỳ lại là anh em. Con rắn thức tỉnh ở Eva đòi hỏi tiềm ẩn ở nàng, như quảng cáo hiện đại. Adam và Eva ăn trái cấm, tội lỗi đầu tiên mang tính chất tiêu dùng quá đáng, thừa. Ở Eva thức tỉnh ham muốn cái mà nàng không cần, ở Thiên đường vốn có tất cả. Ở chừng mức đó thì lòng tham không chỉ đứng ở cái nôi của kinh tế học lý thuyết mà cũng ở khởi đầu lịch sử của chúng ta. Lòng tham là cái bắt đầu của tất cả mọi thứ.
Còn Ác là do sự không thỏa mãn mang đến Trái Đất. Những đòi hỏi của loài người là sự trừng phạt của Thánh thần. Thần thoại Hy Lạp kể chuyện Padora do hiếu kỳ mở hộp mà mang tai họa, đói khát và bệnh tật xuống thế giới. Văn hóa Babylon có sử thi Gilgamesh, cho ta thấy lòng tham đã kéo loài người ra khỏi sự hài hòa của tự nhiên như thế nào. Không bao giờ đạt tới điểm thỏa mãn cũng như đoạn kết của lịch sử. Tiêu dùng hoạt động như nha phiến, cái đủ luôn nằm sau đường chân trời. Triết gia Slavoi Žižek định nghĩa: “Lý do tồn tại của lòng tham không nằm ở việc đi đến đích đạt thỏa mãn hoàn toàn mà ở sự tái sinh chính mình như là lòng tham“.Bởi vậy cuộc sống cuối cùng là công việc Sisiphus (vị thần mang bao nặng lên núi thì nó lại rơi xuống, ông lại phải vác lên, cứ thế mãi, NHT). Nền kinh tế cân bằng là đáng kết án. Có chút ít lòng tham, nói một cách kinh tế thì là nhu cầu với nó, sẽ chẳng bao giờ cạn kiệt. Dẫu sao thì con người vẫn lại luôn ước mơ thoát ra khỏi được guồng máy hoạt động đèu đều, mệt mỏi thường ngày và tìm thấy sự hài hòa của trạng thái cân bằng. Nỗi nhớ Thiên đường đã mất chẳng bao giờ tắt. Tiến bộ hay thỏa mãn, đó là mâu thuẫn nhân học của điều kiện con người. Có vẻ như có hai khả năng giải quyết trái ngược giữa đòi hỏi và thỏa mãn, cung và cầu: có thể khuếch đại cung cấp hàng hóa và sức mua chúng. Đó là chương trình hoan lạc chủ nghĩa mà chúng ta đã quyết định kể từ thời Hy La, nhưng có vẻ như nó có nbguy cơ đổ vỡ ở khủng hoảng nợ. Việc tiền tệ hóa xã hội chúng ta làm gia tăng ảo tưởng rằng tất cả mọi thứ mà chúng ta mơ ước, chúng ta đều có thể với tới được. Ngược với nó, bây giờ ta tuyên bố tiết kiệm, chừng mực, khắt khe. Diogenes nằm trong thùng mà tin rằng ông càng tự do hơn nếu ông ta càng sở hữu ít hơn, chẳng bao giờ có trường hợp đó, thế nhưng tín hiệu triết lý của ông lại đúng lúc, Diogenes là người đi tiên phong trong phê phán văn minh và kỹ thuật, nhà truyền giáo cho giới hạn của tăng trưởng mà Club of Rome cũng đã cố gắng vận động từ 1972, nhưng vô hiệu.Kinh tế học có quan điểm rằng mỗi người đều muốn tối đa hóa quyền lợi của mình. Ở đây vấn đề chỉ là, chúng ta chẳng thể tự xác định chính xác lợi ích tối ưu cho mình.
Chúng ta chẳng biết chúng ta muốn gì, bởi thế chúng ta cần những so sánh, các thí dụ, gợi ý. Tất cả các ước muốn vượt ra ngoài những nhu cầu sinh học cơ bản đều do văn hóa quyết định. Chúng ta muốn sống cứ như chúng ta là diễn viên đóng chính chúng ta.Nền kinh tế giống như đi bộ: có thể đứng lại mà không ngã. Ở đó mang ý tưởng một nền kinh tế có Chúa nhật, Chúa nghỉ ngày thứ bẩy sau khi Ngài đã sáng tạo ra thế giới, chẳng phải Ngài mệt, mà bởi lẽ Ngài thấy cái đã làm là tốt. Cứ bẩy năm ruộng đồng phải để hoang một lần, sau 49 năm nợ được miễn trừ. Đối trọng với lòng tham là đồng cảm. Trong cuốn “Lý thuyết về sự đồng cảm đạo đức“, Adam Smith, người khai sinh ra kinh tế học hiện đại, coi thiện cảm là cơ sở cho đạo đức, là động lực cho hành động con người. Nhưng Adam Smith nổi tiếng hơn qua tác phẩm chính của ông “Thịnh vượng của các quốc gia“, ở đó ông đặt câu hỏi về các tác động của tư lợi của con người và “bàn tay vô hình của thị trường“. Gia sản của Smith chính là đã đưa các vấn đề đạo đức vào kinh tế học, thậm chí chính chúng tạo nên hạt nhận cho kinh tế học.Trái lại với các nhà kinh tế học hiện đại, câu hỏi về Thiện và Ác hầu như mang tính tà giáo.Khi lợi ích cá nhân vượt quá những giới hạn nhất định, sẽ đe dọa nền kinh tế thị trường. Một xã hội hoạt động tốt dựa trên 3 trụ cột: đạo đức hay xã giao, thi đua và cạnh tranh, điều tiết và các điều kiện khung của nhà nước. Nếu đạo đức càng yếu thì nhà nước càng phải can thiệp sâu. Những bài học này thì các nước Đông Âu sau bước ngoặt 1990 hoàn toàn hãy dựa vào phi điều tiết để trước tiên tạo ra được thị trường đã, rồi mới học được sau những trải nghiệm cay đắng. Một xã hội dựa vào tính ích kỷ không có đạo đức, sẽ chìm sâu vào tính trạng vô chính phủ.Các nhà tư tưởng với các ý tưởng Laisser-faire (để tự làm, khái niệm được các nhà kinh tế Marquis d’Argenson, Turgot và Adam Smith dùng cho tự do thương mại) và phong trào Tea-Party (nhóm trà đạo, phong trào phản đối mang tính mỵ dân với nét tự do cánh hữu trong khủng hoảng tài chính 2009 tại Mỹ) ở Hoa Kỳ luôn muốn tách nhà nước ra khỏi lãnh đạo kinh tế. Nhưng ở thời kỳ khủng hoảng thì sự phụ thuộc lẫn nhau giữa tư bản và nhà nước càng ngày càng rõ hơn. Nếu không có trợ giúp của nhà nước thì hệ thống tài chính đã sụp đổ từ lâu rồi, và cả các chính phủ cũng đã tan rã. Có lẽ điều tiết (regulation) là một khái niệm vốn bị hiểu lầm, nên tốt hơn hết là chúng ta hãy nói tới điều hòa, phối hợp (coordination) – nhưng luôn cần hai đối tác, ta không thể chơi tennis một mình. Tuy các mô hình kinh tế mô tả, theo thuyết thực chứng dành hàng chục năm nghiên cứu bằng những phép tính tòan học phức tạp cho câu hỏi nền kinh tế thị trường hoạt động như thế nào, nhưng đơn giản là chúng sai hay tốt nhất cũng là vô ích. Câu hỏi đúng ý tưởng là: nền kinh tế có hoạt động đúng như chúng ta muốn hay không?Đạo đức học tạo nên cái nhân cho kinh tế học, nó dẫn đến câu hỏi về cuộc sống tốt, cuộc sống đúng, eudemonie-duy hạnh phúc theo cách hiểu của Aristote. Với ông, sẽ vô nghĩa nếu tối đa hóa lợi ích mà không tối đa hóa cái thiện. Nền kinh tế vô đạo đức là một hệ thống quỷ nhập tràng. Robot hoạt động hoàn hảo nhưng cuối cùng nó để lại sự tàn phá. Chúng ta phải nghĩ lại về nguồn gốc và bàn về linh hồn của kinh tế học. Những tâm trạng quasireligieux-chuẩn tôn giáo này xa lạ với các nhà kinh tế học cũng như các nhà chính trị. Nhưng niềm tin vào tiến bộ cũng là một eschatology-thuyết hậu thế hướng vào thế tục. Chẳng hề có một môn kinh tế học độc lập với giá trị. Khi khẳng định nó là độc lập với giá trị thì đó lại chính là một sự đánh giá giá trị - một quan điểm tư tưởng. Mỗi một quyết định mua cũng là một quyết định đạo đức.Kinh tế học là một hiện tượng văn hóa chứ chẳng phải là tóan học. Ví dụ đơn giản: Tháng rồi tỷ lệ lạm phát là bao nhiêu? Sẽ phải hỏi tiếp ngay: Điều đó nghĩa là gì? Đó là tốt hay xấu? Chân lý nằm ở ngữ cảnh, mà nó được xác định bằng văn hóa, đạo đức, xã hội chứ chẳng qua một công thức để tính ra lượng tiền. Câu hỏi về ý nghĩa sẽ xuất hiện khi đã mất ý nghĩa rồi. Các nhà kinh tế học hành xử phi lý, siêu máy tính Deep Thought phải trả lời câu hỏi về cuộc sống, vũ trụ và tất cả cái còn lại, nó tính rồi tính, rồi nhả ra câu trả lời cuối cùng cho câu hỏi cuối cùng của tất cả các câu hỏi - một con số, 42. Với câu hỏi cuối cùng của Der Spiegel về cái bẫy khủng hoảng và nợ, Sedlácek đáp bằng câu hỏi ngược: cuộc sống tham lam là cuộc sống thiện ư? Chúng ta muốn cuộc sống đó à? Câu trả lời tự nó có. Sedlácek tuân thủ Aristote. Kinh tế học phải là ngành khoa học của hạnh phúc. Và theo Aristote, cuộc sống hạnh phúc là cuộc sống mãn nguyện. Các nhà chính trị, trước hết là các nhà thực dụng, đã hiểu ông. Thời khủng hoảng là tốt để đặt câu hỏi và đáp. Chúng ta phải từ biệt ám ảnh tăng trưởng trong nền kinh tế. Thay vì tối đa hóa sản phẩm quốc nội phải là tối thiểu hóa nợ. Trong nền dân chủ thị trường phải tước bỏ uy quyền và việc quyết định của các chính trị gia. Gây nợ - cũng như họ đã đánh mất quyền in tiền. Sedlácek đề nghị một minh ước ổn định mới: Trong một năm, tăng trưởng và thâm hụt ngân sách tính ngược nhau không được vượt quá 3% BIP. Ai không biết ứng xử với chúng, kẻ đó rơi vào tháp nợ thời Trung cổ hệt như người Hy Lạp. Cuộc khủng hoảng tới sẽ là án tử hình. Với kinh tế học, Sedlácek đại diện cho quan điểm mang tính hiện sinh, một loại siêu kinh tế học. Còn ở câu hỏi: “Trong giới chủ ngân hàng, triết gia sống ra sao?“ Sedlácek đáp: “Trước hết như con chim lòe loẹt, sau đó là không phải không có sự tôn trọng“. Ông được nghe vì ông đã thức tỉnh ý thức của cộng đồng. Chúng ta phải nỗ lực hơn trong việc tự kiềm chế. Nhà thơ Anh John Milton đã diễn đạt tuyệt vời ý đó: “Ai chế ngự được chính mình và những đam mê của mình, kiềm chế được lòng tham và nỗi sợ, kẻ đó sướng hơn vua”.
(Theo Der Spiegel số 12, tháng 3, 2012)