Lễ tục cưới xin trong xã hội cổ truyền Thái đen
Việc cưới hỏi theo truyền thống của người Thái đen vùng Tây Bắc phải trải qua những nghi thức say đây:
Tục “Mở gói ăn hỏi”( Hịt ổ bay khay hó).
Được sự thuận tình của ba họ: ải noọng, lung ta, nhin xoa, bố mẹ chàng trai nhờ ông mối ( po lam), bà mối ( me lam), người thông hiểu phong tục - tập quán, khéo ăn nói và có tín nhiệm đứng ra đảm đương công việc từ đầu chí cuối.
Chọn được ngày lành tháng tốt, ông bà mối đem 12 gói trầu không, 12 gói thuốc lào, 2 con gà sống thiến, 2 con gà mái tơ, 4 chai rượu, gọi chung bằng cụm từ “đôi rượu – đôi gà” ( đôi lảu đôi cáy) sáng thưa chuyện với bố mẹ cô gái. Người Thái gọi sự kiện này là xin lập quan hệ giữa lung ta (họ nhà gái) với nhinh xao(họ nhà trao) mới. Nhờ có sự qua lại không chính thức trước đó, đoàn mối mai đến, bố mẹ cô gái có đưa ra quyết định cuối cùng hay không, nhưng vẫn nhận lễ “đôi rượu – đôi gà” để vui lòng đôi bên.
Trong những ngày tiếp theo, bố mẹ cô gái trình bày ý kiến của mình trước ba họ, trong đó ý kiến ông cậu (của cô gái) là quan trọng hơn cả. Bố mẹ cô gái có thể đi đến quyết định cuối cùng, nhưng phải thuyết phục được các ông cậu đồng tình. Cho dù chỉ có một ông cậu thuận tình thì chính ông cậu đó sẽ trở thành trụ cột để lôi cuốn ba họ thuận theo. Bằng giá nào, bố mẹ cô gái cũng phải tránh cho được sự bất hoà trong ba họ do quan hệ hôn nhân mới châm lửa.
Tục “Hỏi dứt lời, dạm đứt giá”( Hịt ôm khát ca va khat quam)
Xã hội Thái xưa thiên về “trọng nam khinh nữ” nên có quan niệm “gái là của bán, trai là của nuôi” ( nhinh khong khai, chai khong liệng). “Của bán” có “giá đầu” ( ca hua). Điều này cho ta cẩm nhận là phụ nữ Thái ở vào địa vị thấp trong xã hội cổ truyền. Song việc “mua bán” như thế chỉ xảy ra trong cưới hỏi”. Và thực tế thì tập tục này cũng bị một tập túc khác ngay trong hôn nhân hạn chế. Đó là tục cô dâu phải có của hồi môn theo về nhà chồng. Người Thái có câu: “Của ăn bằng cối giã; của cho bằng cái cối hình thuyền” ( Kin to chộc phốc to lỏng). Điều đó cho thấy, nếu thách cưới một, đến khi phải trả dưới danh nghĩa của hồi môn, ít nhất cũng phải gấp năm. Tục ngữ nói về cưới hỏi có câu: “Lệ bản 12, luật mường 14 (24)” ( Hịt bản xíp xong, khong mương xíp xí (xao xí).Lệ bản quy định cho dân nên tuyệt đại bộ phận người Thái đã theo hàng trăm năm và trở thành tập tục. Ngược lại, luật mường là những quy định cho tầng lớp quý tộc, nay đã lui vào dĩ vãng. Vậy, lệ “hỏi dứt hơi, dạm đứt giá” với quy định trong con số 12 ở xã hội cổ truyền Thái bao gồm những lễ vật sau:
1) Tục “Ống bằng gói đủ” (Bẳng dớng chơng piêng) gồm 12 gói: trầu không, vỏ, thuốc lào, cau quả lấy từ 12 buồng khác nhau; thuốc lào hoặc thuốc lá 12 bao, gừng 12 gói; gà luộc chín gói cả con.
12 giỏ ( hắp), đan bằng lạt dang (nhuộm phẩm xanh, đỏ) gồm có: cá sấy khô (pa dảng); trứng gà, mỗi giỏ 6 quả x 12 = 72 quả.
12 ống tre (hoặc bương) để đựng: thịt trâu, bò ướp chua ( nhứa xổm); cá ướp thơm ( pa bong).
2) Tiền và vải ( phải ngơn xíp xong). Tuỳ theo sự giàu-nghèo, tập tục quy thành ba mức.
Với nhà giàu thì 12 nén bạc, tương đương với 200 đồng bạc trắng hoa xoè thời xưa. Đây là mức tối đa, luật mường không cho vượt quá. Với gia đình hạng trung thì 12 lạng bạc, bằng 20 đồng bạc trắng xoè. Với nhà nghèo thì 12 phân bạc, tương đương với 2 đồng bạc trắng hoa xoè.
Vải trắng, tối đa 12 đơn vị đo gọi là ton. Một ton có 10 chầu, một chầu bằng bốn sải tay. Đây cũng là mức tối đa, không được phép quá. Trung bình thì 12 chầu và nghèo thì ở mức tối thiếu là 12 sải. Vải thổ cẩm (khít, hoặc nả pha) định mức chung 12 sải).
Tuy lệ là vậy nhưng khi thương lượng, nhà gái vẫn có thể dễ dàng đi đến thoả thuận ở mức tối thiểu để nhà trai dễ bề lo liệu. Thậm chí nhiều cuộc hôn nhân cũng chỉ tính đến mức thấp nhất tức “ống bằng gói đủ” là cũng qua được bước thứ hai này.
Tục dẫn con trai lên làm rể quản( khươi quản)
Qua lệ “ Hỏi dứt lời, dạm dứt giá”, chọn được ngày lành tháng tốt, năm thuận, bố mẹ nhờ bậc cha chú dẫn con trai đến nhà cô gái xin làm rể tạm. Lệ này quy định chàng rể chỉ được nằm một mình và sinh hoạt riêng ở gian phía quản nên gọi là “rể quản” ( khươi quản).
Mục đích của lệ tục này là để gia đình cô gái xem xét hành vi của chàng rể tương lai: chăm chỉ hay lười biếng, nhanh nhẹn, tháo vát hay chậm chạp, can đảm hay nhút nhát, khoẻ mạnh hay ốm yếu, thành thạo các thao tác trong lao động hay vụng về… Nói chung là để biết rõ mặt mạnh, mặt yếu của chàng trai. Qua đó để có thể đi đến quyết định cuối cùng: tiến tới các lễ tục tiếp theo hay dừng lại, huỷ bỏ việc gả bán. Thời gian làm rể quản tối thiểu là ba tháng, tối đa một năm.
Trong thời gian ấy, chàng trai phải đảm đương mọi việc đồng áng, nương rẫy, kiếm cá ngon ở sông suối, săn bắt muông thú… Ngày rảnh việc ngoài nhà thì lại đan chài, đan đồ tre, mây, rèn nông cụ, dạy bảo các em học chữ Thái. Nói chung, tất cả mọi việc nặng nhọc, khó khăn của người nông dân Thái, rể quản đều phải gánh vác. Ngoài bữa ăn và khi ngủ, người rể tạm phải luôn tay luôn chân làm lụng.
Trong thời gian làm rể quản, nếu có sự bất bình, bố mẹ cô gái có quyền đuổi ra khỏi nhà bất cứ lúc nào. Cũng trong thời gian ấy, tuyệt đối không được đi lại với người vợ chưa cưới của mình. Nếu vi phạm nghiêm trọng có thể bị đuổi ngay lập tức! Người làm rể cũng có thể tự xét nếu cảm thấy không theo đuổi được lệ tục này thì xin phép bố mẹ đôi bên để ra khỏi nhà!
Khi đến làm rể quản, chàng trai chỉ đem theo chăn đệm và tư trang của mình, trong đó có con dao rừng để lao động. Tất cả đồ sính lễ đã thoả thuận chưa phải dẫn đến. Ngay nay lệ tục này đã chấm dứt.
Lễ “Nhập phòng”
Họ nhà gái chọn được ngày lành tháng tốt, cho người đến báo tin ấy với nhà trai. Lập tức phía nhà trai cử người dẫn đồ sính lễ đến phục vụ nghi thức búi tóc cô gái lên đỉnh đầu ( khửn cảu).
Sính lễ gồm hai mớ tóc độn ( đôi chọng), một đôi hoa tai bằng bạc hoặc vàng ( đôi óng hu ngơn hư va căm), một đôi trâm ( đôi mản khắt cảu), một vòng cổ ( lểm pók co), một đôi vòng tay ( ngơn khảu co xáu khen)đều bằng bạc. Để lót dưới đồ trang sức ấy là 10 sải vải trắng, 4 sải thổ cẩm ( khít) cùng với 4 gói trầu không, vỏ, cau, thuốc lào.
Đón nhận được đồ sính lễ ấy, lung tacho người đi đón hai bà mẹ có phúc phận (những người có uy tín và có cuộc sống hạnh phúc vẹn toàn) đến giúp thủ tục.
Trước hết, các bà bưng chiếc rổ đựng đồ sính lễ đặt giữa nhà, mé chân phòng tân hôn rồi rải chiếu, giắt tay cô gái vào quỳ trên chiếc chiếu ấy. Sau khi lẩm bẩm lời cầu phúc cho đôi lứa, hai bà tháo búi tóc sau gáy cô gái cho xoã xuống, chải cho xuôi bằng chiếc lược mới rồi cài độn tóc, búi ngược lên đỉnh đầu và cắm trâm bạc, đồng thời nói: “Từ nay con sẽ là người chung phụ” (Ca nị lụk cảu xú phua).
Lúc làm nghi thức này, nhiều thiếu phụ khóc như mưa, phần vì sung sướng, phần vi nuối tiếc tuổi thanh xuân bỗng lui vào dĩ vãng! Sau đó hai bà đến bên quản nâng đệm, chăn gối mới của chàng rể rải sát vào đống chăn, đệm, gối mới của cô gái rồi chăng màn, căng rèm hoa tại phòng tân hôn. Tiếp theo là các bà tới bên quản dắt tay chàng rể đến nắm tay nàng dâu cùng nhập phòng, vô màn.
Nguồn: Dân tộc & Thời đại, số 80, 7/2005, tr 2, 3








