Lê Đức Thọ - Kissinger
Hai người đã biết tiếng nhau nhưng hôm nay, ngày 21 tháng 2 năm 1972, họ mới gặp nhau lần đầu tiên theo yêu cầu của Kissinger. Trong cái phòng khách nhỏ bé của ngôi nhà xinh xắn số 11 phố Darthes, thị trấn Choisy Le Roi, họ ngồi như sát nhau. Có người thường nói: Đông là Đông, Tây là Tây, Đông Tây không bao giờ gặp nhau. Kìa trông Lê Đức Thọ và Kissinger, Đông chẳng gặp Tây đó sao? Nhưng thật ra đó là hai con người, mà cũng có thể nói là hai thế giới. Kissinger là nhà ngoại giao chuyên nghiệp, có người bảo là môn đệ của Mahiavel (1), có người lại bảo là môn đệ của Metternich (2), khác hẳn với Lê Đức Thọ về nguồn gốc xã hội, điều kiện trưởng thành và lý tưởng chính trị…
Người nông dân đất Kinh Bắc xưa thường nói: Nhất kiến vi cựu, trao cho nhau miếng trầu cánh phượng để xây dựng mối duyên lành, ở đây hai nhà ngoại giao gặp nhau lần đầu để làm quen với nhau, để rồi thăm dò, tìm hiểu nhau, và cái đó mới là điều quan trọng tất nhiên đối với cả hai bên. Kissinger nói tới nguyện vọng của Mỹ muốn nhanh chóng giải quyết vấn đề Việt Nam . Lê Đức Thọ cũng nhẹ nhàng nói tới nguồn gốc chiến tranh, triển vọng của nó, Mỹ sai lầm khi gây ra chiến tranh Việt Nam và khẳng định thái độ của Việt Nam: nếu Mỹ và Việt Nam cùng có thiện chí đàm phán sẽ có kết quả, nếu Mỹ không muốn giải quyết mà tiếp tục đánh thì Việt Nam sẵn sàng tiếp tục chiến đấu. Hầu như muốn phác hoạ bức tranh của cuộc đàm phán, ông chủ động nêu một loạt vấn đề: việc rút quân Mỹ, việc gạt bỏ chính quyền Thiệu - Kỳ - Hương, việc công nhận Chính phủ cách mạng lâm thời; việc lập Chính phủ liên hiệp, cách thảo luận là bàn cả vấn đề quân sự và vấn đề chính trị. Gọi đó là một chương trình nghị sự cũng được.
![]() |
Con tem của Micronesia (quần đảo Caroline, Thái Bình Dương) phát hành năm 200, trong bộ gồm 24 tem về các nhân vật có công với việc “kiến tạo hoà bình”. Mẫu tem về Lê Đức Thọ và Kissinger. |
Trong những lần gặp riêng sau, - nay đã trở thành một diễn đàn bí mật song song với diễn đàn công khai tại đại lộ Klébert – quá trình đàm phán bắt đầu diễn biến theo quy luật thông thường, lúc mau lúc thưa, lúc căng lúc dịu, có lúc nghỉ mấy tháng liền. Bước ngoặt quyết định là vào tháng 7 năm 1972, sau khi, do diễn biến phức tạp của quan hệ giữa các đồng mình của ta và thời điểm có bầu cử tổng thống ở Mỹ, Bộ Chính Trị Đảng ta chủ trương từ chiến lược chiến tranh chuyển sang chiến lược hoà bình để thực hiện lời tiên tri của Bác: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào”. Biết rõ Nhà Trắng muốn chấm dứt chiến tranh rút được quân Mỹ về, lấy được tù binh Mỹ về, ta đồng ý với Mỹ đi vào vấn đề thực chất vào ngày 8 tháng 10 năm 1972, ta chủ động đưa ra dự thảo Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam . Đang hạn hán lại gặp mưa rào, toàn đoàn Mỹ nín thở để nghe Lê Đức Thọ đọc bản dự thảo của ta. Kissinger lại ghi vào nhật ký: “Hầu hết các đồng sự của tôi và tôi hiểu ngay tầm cỡ của những điều chúng tôi vừa nghe. Tôi yêu cầu ngừng phiên họp ngay. Lord (thành viên của đoàn Mỹ) và tôi nắm tay nhau và tuyên bố: “Chúng ta đã thành công!”. Tôi chưa bao giờ cảm động bằng buổi quá trưa mát mẻ của ngày chủ nhật mùa thu ấy”. Tất nhiên còn phải nhiều vòng đàm phán nữa mới đi đến giải pháp.
Đoàn Mỹ đưa ra một dự thảo hiệp định đại để dựa vào bản dự thảo của ta.
Cả hai bản dự thảo cùng đưa ra bàn. Khi đi vào thảo luận, những lời thề thiện chí, tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, quyền tự quyết của nhân dân miền Nam được đưa ra nhẹ nhàng, coi như không có giá, nhưng những vấn đề cụ thể hoá các nguyên tắc đó lại phải trao đổi giá rất lâu, thậm chí có lúc Lê Đức Thọ phải nhắc tới thủ đoạn “lái trâu” ở Việt Nam.
Một buổi chiều cũng vào mùa thu ấy, hai đoàn bắt đầu thảo luận từng điều khoản một và lần đầu tiên tôi ra mắt công khai với đoàn Mỹ. Bắt đầu cuộc họp, Lê Đức Thọ phát biểu:
- Tôi xin giới thiệu ông Lưu Văn Lợi, cố vấn pháp luật của đoàn Việt Nam .
Kissinger nguýt tôi qua cặp kính trắng:
- Luật giáo hội à (droit canonique)?
Mọi người coi là lối chơ chữ sở trường của ông, tôi cũng cười.
Cuộc thảo luận đến một khó khăn đầu tiên, Lê Đức Thọ chỉ tôi:
- Tôi có thể đồng ý được nhưng ông Lợi nói không nên.
- Thế à! Kissinger hỏi. Ông Lưu Văn Lợi muốn được thưởng huân chương cao quý đây.
Đến một chỗ bất đồng thứ hai, Lê Đức Thọ lại chỉ tôi:
- Ông Lợi khuyên tôi không nên nhận.
- À ra ông Lợi muốn người ta dựng tượng ông bên bờ hồ - Kissinger đáp một cách khó chịu.
Lê Đức Thọ nói thêm:
- Chân bức tượng đó phải ghi những đề nghị sửa đổi hiệp định của ông Lợi.
Kissinger cũng hiểu đây là một kiểu ứng xử của Lê Đức Thọ để không khí bớt gắng… (3).
Đến ngày 20 tháng 10 năm 1972 cả hai chính phủ Việt Nam và Mỹ đều công nhận là Hiệp định đã hoàn chỉnh và thoả thuận sẽ ký vào ngày 31 tháng 10 năm 1972. Mọi việc tưởng thế là xong.
Nhưng đến ngày 24 tháng 10, Kissinger lại gửi công hàm cho ta đề nghị có cuộc gặp riêng để thảo luận một số vấn đề kỹ thuật và thực chất. Bộ Chính trị ta hiểu ngay rằng Mỹ lật lọng, không muốn ký bản hiệp định đã thoả thuận. Chính phủ ta công bố tất cả các văn kiện của hai bên liên quan đến Hiệp định, từ toàn văn Hiệp định đến thư của Phạm Văn Đồng và Nixon chấp nhận Hiệp định và ngày ký. Bộ Ngoại giao ta cũng ra tuyên bố, hai đoàn đại biểu Bắc Nam ở Hội nghị bốn bên ra tuyên bố phản đối rồi bỏ phòng họp đi ra. Toàn thế giới sửng sốt vì ai nấy đều biết hai bên hoàn toàn thoả thuận xong văn bản ngày 20-10-1972. Đây là đòn ngoại giao mạnh nhất mà ta giáng vào đầu Nixon. Kissinger lúng túng, lại nói đại rằng “Hoà bình đã trong tầm tay”, làn sóng phản đối của thế giới ngày càng xô lên dữ dội. Kissinger phải nài ta họp lại.
Hai bên họp lại từ ngày 20 tháng 11 đến ngày 13 tháng 12. Tuy hai bên có cơ sở thảo luận chung là bản hiệp định ngày 20-10-1972, thật sự là thương lượng lại hiệp định vì Mỹ đưa ra 69 điểm của Nguyễn Văn Thiệu đòi sửa lại và một số vấn đề khác. Mở đầu bằng một tham luận dài của Lê Đức Thọ phê phán mạnh mẽ thái độ lật lọng của Mỹ, nhưng rồi hai bên cũng đi vào thảo luận, có lúc nhân nhượng nhau, nhưng phần nhiều các vấn đề về nguyên tắc ta kiên quyết giữ không nhân nhượng. Có lúc bực mình quá, Lê Đức Thọ vặn Kissinger:
“Chính công hàm của Tổng thống gửi cho chúng tôi đã nói văn bản Hiệp định đã hoàn chỉnh, vậy thì lời nói của Tổng thống các ông là thế nào?”.
Khi Mỹ nêu lại vấn đề đòi rút quân miền Bắc, cuộc họp trở nên căng thẳng, Lê Đức Thọ bình tĩnh nói:
Tổng thống Nixon nói đến danh dự nước Mỹ, chúng tôi cũng có danh dự của chúng tôi. Các ông đem quân đến xâm lược nước chúng tôi, bây giờ các ông phải rút đi, lại đòi chúng tôi, những người chống xâm lược rút đi. Nếu có như vậy trong hiệp định thì nhân dân chúng tôi làm sao mà chịu nổi”.
Kissinger không chịu các nguyên tắc về chính trị nội bộ miền Nam đã thoả thuận rồi lại hỏi có phải Lê Đức Thọ đưa ra tối hậu thư không, Lê Đức Thọ đập tay xuống bàn và nói to:
- Về chương IV (về quyền tự quyết của nhân dân miền Nam ) thì đúng là tối hậu thư.
Do sự tiết lộ của một nhân viên đoàn Mỹ, báo chí Mỹ tung câu chuyện này khiến Kissinger cảm thấy bẽ mặt.
Đến ngày 13 tháng 12, còn vấn đề khu phi quân sự chưa giải quyết xong, nhưng toàn bộ hiệp định và các văn kiện khác coi như đã bàn xong. Lê Đức Thọ và Kissinger chuẩn bị về nước báo cáo. Một lần nữa Nixon lại tráo trở gửi tối hậu thư đòi ta phải đàm phán nghiêm chỉnh trong vòng 72 giờ (ngày 18 tháng 12 ta mới nhận được), đồng thời cùng ngày Nixon ra lệnh dùng B52 tấn công ồ ạt vào Hà Nội, Hải Phòng hòng ép ta nhượng bộ tối đa; nhưng chiến dịch mang danh Linebacker 2 dùng B52 đánh phá đã thất bại thảm hại. Quân và dân ta đã lập chiến công “Điện Biên Phủ trên không”.
Sau thất bại của cuộc không kích chiến lược bằng B52, Mỹ phải yêu cầu gặp lại ta. Một lần nữa đồng chí Lê Đức Thọ đã kịch liệt phê phán thái độ tráo trở, lật lọng, trắng trơn của Mỹ. Ta có quyền tự hào đã giữ được nội dung chủ yếu của Hiệp định 20-10-1972. Mỹ chấm dứt chiến tranh, rút hết quân Mỹ và quân các nước đồng mình, cam kết chấm dứt dính líu quân sự vào miền Nam, giữ vững lực lượng chính trị và vũ trang của phía Việt Nam không nêu rút quân ta, buộc Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải công nhận miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát, ba lực lượng chính trị, giữ được về cơ bản chức năng của Hội đồng hoà giải hoà hợp dân tộc, gạt được ý đồ của Mỹ - Thiệu muốn hạ thấp vai trò xuống thành cơ quan bầu cử đơn thuần. Ta còn được con số góp phần xây dựng miền Bắc cao hơn hồi tháng 10-1972.
Lịch sử đã chứng minh do tác động của Hiệp định Paris , Mỹ không dám đưa quân trở lại cứu Nguyễn Văn Thiệu khi ta mở Chiến dịch Hồ Chí Minh, để ta thực hiện được đúng lời của Bác Hồ “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào”.
Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan 70 tuổi đi sứ tự răn mình mỗi ngày phải đọc thơ Bạch Khuê ba lần (thơ có câu nói ngọc khuê trắng có vết có thể mài được, nhưng lời nói mà có vết không làm được việc gì). Nếu Lê Đức Thọ biết có bài thơ Bạch Khuê chắc ông cũng đọc đi đọc lại như Trạng Bùng để tránh mọi sai sót, nhưng tôi biết ông ngày đêm chỉ tâm niệm một điều: làm sao hoàn thành nhiệm vụ đối với dân tộc, đối với Tổ quốc. Khi cùng Kissinger ký tắt Hiệp định Paris là lúc ông hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng đó.
________________
1. Machiavel: Nhà ngoại giao Ý thế kỷ XVI đã viết cuốn sách ngoại giao nổi tiếng “Quân Vương” (Le Prince).
2. Metternich: Nhà ngoại giao Áo nổi tiếng chủ trì Hội nghị Viên để chia lại Châu Âu sau khi Napoléon thua.
3. Xin cắt một đoạn viết về các nội dung thảo luận cụ thể (XN).
Nguồn: Xưa và Nay, số 101, tháng 10/2001








