Kỷ niệm 91 năm Cách mạng Tháng Mười Nga (1917 – 2008): Ý nghĩa chính sách kinh tế mới của V.I. Lênin đối với công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam
1- Về cách tiếp cận NEP trong điều kiện hiện nay
Theo cách tiếp cận của Lênin, cần phải phân tích đầy đủ ba vấn đề cấu thành nội dung của NEP: phân tích thực trạng kinh tế - xã hội hiện hữu; trình độ phát triển chủ nghĩa tư bản thế giới; vai trò nhà nước. Ba vấn đề đó ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ 21 khác nhiềuvới những năm 1921 – 1922 ở Nga. Cần làm rõ sự khác nhau đó.
Hơn nữa, mục đích phân tích 3 vấn đề ấy là tìm ra mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị, giữa dân tộc và thời đại(theo Lênin “chủ nghĩa tư bản nhà nước không phải là tiền mà là quan hệ xã hội”). Vì vậy, sự phân tích đúng đắn phải dựa trên tư duy biện chứng và quan điểm hệ thống.
2 – Phân tích thực trạng kinh tế - xã hội nước Nganửa đầu thế kỷ 20, NEP chỉ cho ta thấy rõ sự cản trở lớn nhất đối với sự phát triển của đất nước là “ tính tự phát tiểu tư sản”. Còn ở nước ta ngày nay, hầu hết dân số là nông dân và dân nghèo thành thị, khi chuyển sang cơ chế thị trường thì tính tự phát đó đã bộc phát trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, từ các dự án xây dựng mất mát, lãng phí lớn, từ các vụ buôn bán, các dịch vụ xuất khẩu lao động (khó tưởng tượng 2.118 người bị lừa mất hơn 52 tỷ đồng) cho đến công tác giáo dục, thi đua khen thưởng, tổ chức cán bộ đều đậm nét thị trường mua bán tự phát. Các quan hệ xã hội giữa người với người đang bị lấn át bởi quan hệ tiền bạc.
Ở một nước kém phát triển, tính tự phát tiểu tư sản cũng thể hiện khá nhiều trong bộ máy lãnh đạo, quản lý(như mua bán chức vụ, lấn chiếm đất đai, hối lộ, tham nhũng phổ biến, kể cả trong bộ phận quan trọng như toà án, luật sư, công an). Căn bệnh tự phát tiểu tư sản này từ lâu đã được nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu chỉ rõ: Đó là tình trạng “nói nhiều làm ít, nói nhưng không làm, nói một đàng làm một nẻo”. Không thể lường được tính tự phát trong bộ máy gây tai hại đến việc xây dựng Đảng, cải cách Nhà nước, ngoài ra đó còn là chất xúc tác cho sự phát triển tiêu cực trong xã hội như các vụ tham nhũng, gây thất thoát lớn của cải và nguồn lực… thậm chí một số cán bộ nhà nước còn cấu kết với xã hội đen.
Tình trạng nói trên đang và sẽ gây hậu quả nặng nề, khi nước ta phải vận dụng các thể chế quốc tế trong hội nhập với các tiêu chí minh bạch, công khai, kiểm toán, kiểm soát.
Điều lạ lùng là tình hình đó đã bộc lộ qua nhiều năm và khá phổ biến, nhưng công tác lý luận và tư tưởng, công tác tổ chức cán bộchỉ phê phán một cách hình thức, đến nay mới chỉ có “chống tham nhũng”. Tính tự phát tiểu tư sản ở nước ta khá nghiêm trọng, nó có nguồn gốc từ văn hoá tiểu nông, tiềm ẩn nguy cơ làm chệch hướng phát triển. Đúng như Lênin nói “ tính tự phát ấy hiện đang ngăn cản chúng ta thực hiện chính cái bước ấy, cái bước quyết định sự thành công của chủ nghĩa xã hội”. Vì vậy, để khắc phục tính tự phát và thực hiện “cái bước quyết định thành công” mà Lênin đã phát hiện ra “chủ nghĩa tư bản nhà nước đặc biệt”.
Phân tích thực trạng kinh tế - xã hội nước ta theo quan điểm NEP, còn thấy mặt thứ hai là: Vấn đề nông dân, nông thôn, nông nghiệp. Ở nước ta quá trình đổi mới được khởi động từ nông dân (khoán chui tiến tới khoán 10). Nhưng sau 20 năm, nông thôn và nông dân lại chịu nhiều thiệt thòi nhất, như: “Một hạt thóc phải gánh 30 khoản thu” (báo Thanh niên ngày 17, 23/4/2007); công nghiệp hoá đã làm 45% nông dân Thái Bình phải bỏ nhà đi nơi khác làm ăn; lấy đất làm đường sá, làm khu công nghiệp, đền bù xong bỏ mặc nông dân không nghề sinh sống; sự chênh lệch mức sống vật chất, văn hoá giữa đô thị với nông thôn ngày càng tăng… Theo tinh thần NEP, phải sớm đặt lại cho đúng vấn đề nông thôn, nông dân hiện đang chiếm hơn 70% dân số.
3 – Phân tích trình độ phát triển chủ nghĩa tư bản thế giới, NEP chỉ cho ta thấy vận dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật hiện đại và phương thức tổ chức, quản lý tiên tiến của CNTBlà một trong những điều kiện quyết định xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát lạc hậu.
Theo quan điểm Lênin, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước không chỉ tạo ra những tiền đề vật chất - kỹ thuật hiện đại (thuộc lực lượng sản xuất), mà còn tạo ra phương thức tổ chức, quản lý tiên tiến (quan hệ sản xuất) – nghĩa là đang hình thành phương thức sản xuất mới, phủ định dần chủ nghĩa tư bản truyền thống. Vì vậy, khi chúng ta vận dụng những thành tựu của thế giới, không chỉ quan tâm thành tựu khoa học - kỹ thuật hiện đại, mà còn phải coi trọng học tập phương thức tổ chức, quản lý tiên tiến.
Ngày nay, nước ta hội nhập thế giới khi chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước đã phát triển một bước về chất so với thế kỷ trước. Đó là ra đời lực lượng sản xuất hoàn toàn mới và phương thức tổ chức quản lý mới, kết hợp lại thành kinh tế tri thức, tuy vẫn còn vận động trong quỹ đạo chủ nghĩa tư bản.
Nếu theo quan điểm Lênin: Phải “giơ cả hai tay mà nắm lấy thành tựu chủ nghĩa tư bản”, thì chính lúc này chúng ta có nhiều thuận lợi lại càng phải dốc sức chuẩn bị nắm lấy kinh tế tri thức nhằm hiện đại hoáđất nước. Cách nói chung chung “công nghiệp hoá, hiện đại hoá” đã đưa lại hậu quả là tiếp nhận kỹ thuật trung bình và thấp mà công ty tư bản chuyển sang. Vì vậy, sau nhiều năm công nghiệp hoá thu hút đầu tư nước ngoài mà công nghệ tiên tiếntrong doanh nghiệp Việt Nam chỉ đạt 2 – 3% (trong khi Thái Lan 30%; Malaysia 51%; Singapore 73%) bên cạnh tình hình cơ sở hạ tầng yếu kém, thủ tục hành chính rườm rà, nạn tham nhũng khắp nơi. Còn về phương thức tổ chức, quản lý tiên tiếnthì ít chú ý học tập (dự án 112 của Chính phủ thất bại đã nói rõ), nên sau 20 năm vẫn chưa có đội ngũ quản lý doanh nghiệp và quản lý nhà nước hiện đại, chưa có quy hoạch kinh tế, quy hoạch đô thị hợp lý. Bài học “tăng trưởng mà không phát triển” của một số nước Mỹ Latinh và bài học tăng trưởng lúc đầu sau đó trở thành bãi rác thế giới của một số nước châu Phi vẫn chưa được chú ý.
4- Cần có một bước đột phá trong cải cách tổ chức và thể chế hoạt động của nhà nước
Hai nội dung quyết định một nước lạc hậu có thể phát triển theo con đường rút ngắn (là điều tiết có định hướng nền kinh tế nhiều thành phần và vận dụng những thành tựu tiên tiến của chủ nghĩa tư bản) hoàn toàn phụ thuôc vào vai trò nhà nước do Đảng lãnh đạo. Vì vậy, chỉ có nhà nước pháp quyền của dân có được “tính tập trung, được tính toán, được kiểm soát và được xã hội hoá” mới gánh vác được vai trò nhà nước trong khắc phục tính tự phát tiểu tư sản trong nước và tiếp nhận thành tựu thế giới để hiện đại hoá đất nước.
Do không coi trọng bài học về NEP của Lênin, nên vấn đề xây dựng nhà nước ta bị thu gọn lại là cải cách hành chínhđã vài thập kỷ mà không hiệu quả. Tính tự phát tiểu tư sản hám lợi thể hiện rõ trong thực hiện Dự án 112 hàng ngàn tỷ đồng, trong phát triển chủ nghĩa địa phương, cục bộ, trong “bệnh thành tích” nặng nề ở các cấp. Chủ trương chống tham nhũng là quan trọng, nhưng chỉ có vậy thì sẽ không có một nhà nước đủ tầm vóc “tạo ra chiếc cầu dẫn” từ xã hội cũ sang xã hội chủ nghĩa như Lênin nói. Xây dựng một nhà nước có tầm vóc ấy là trách nhiệm hàng đầu của Đảng cầm quyền, mà trước tiên là những người lãnh đạo, quản lý phải biết cách học ở những nhà tổ chức lớn trên thế giới, ở những người lãnh đạo các tờ-rớt của chủ nghĩa tư bảnnhư Lênin nói. Đây là đòi hỏi cấp bách, nhưng chưa được đặt thành vấn đề.
5 – NEP và lý luận về “con đường phát triển rút ngắn lên chủ nghĩa xã hội” ở nước ta
Nếu Mác hoàn toàn dựa vào quy luật kinh tế của sự vận động xã hội hiện đại mà chỉ ra quá trình lịch sử- tự nhiêntừ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, thì Lênin trong khi sáng tạo ra NEP đã chỉ ra “con đường phát triển rút ngắn” từ tình trạng kinh tế lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội. Hai ông đã chỉ ra hai con đường mà hai bộ phận nhân loại phải trải qua. Con đường phát triển rút ngắn là hệ quả tất yếu của con đường lịch sử - tự nhiên mà các nước phát triển đang đi qua. Sự sáng tạo ra NEP của Lênin cũng bắt nguồn từ những sáng tạo của Mác.
Nên lưu ý rằng, chủ nghĩa tư bản đã trải qua nhiều nấc thang phát triển. Ở nấc thang “chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước” dựa trên cơ sở kinh tế công nghiệpđầu thế kỷ XX mới xuất hiện khả năng con đường phát triển rút ngắn mà Lênin đã phát hiện ra. Còn hiện nay, khi chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ở giai đoạn toàn cầu hoá dựa trên kinh tế tri thứcthì con đường phát triển rút ngắn chắc chắn sẽ ngắn hơn với chất lượng cao hơn, nếu có một nhà nước đủ tầm tạo chiếc dầu dẫn từ xã hội cũ lên xã hội mới.
Công tác lý luận của Đảng phải tập trung vào trọng điểm đó với một bước đột phá về tư duy và phương pháp luận. Từ sáng tạo NEP của Lênin, có thể học được nhiều về tư duy biện chứng và phương pháp hệ thống được áp dụng trong thực tiễn, trong đó có mấy vấn đề cần lưu ý:
- Thực hiện NEP tức là chuyển sang kinh tế thị trường nhiều thành phần với mục tiêu là tiến tới tạo lập cơ sở kinh tế - xã hộicủa chủ nghĩa xã hội, trong đó năng suất lao động cao là tiêu chí then chốt.
- Mục tiêu đó đòi hỏi có vai trò của kiến trúc thượng tầngchính trị cùng phát triển, cùng hoàn thiện, đồng hành với cơ sở.
- Khi thực hiện mục tiêu đó, cần phải đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hộitrong thời đại hiện nay. Theo Lênin, đó là “ sự thay đổi tận gốc toàn bộ quan niệm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội”. Đây là ranh giới không thể bước qua đối với “những người cộng sản cánh tả” và những kẻ giáo điều sách vở.
Trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, chúng ta không chỉ có những bài học sáng tạo NEP của Lênin, mà còn có những sáng tạo của Hồ Chí Minh rất sát với thời đại hiện nay, gắn liền với đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hoá Việt Nam. Những sáng tạo của Hồ Chí Minh đã thể hiện trong xây dựng nhà nướcsau Cách mạng tháng Tám, trong chính sách kinh tế - xã hộitừ năm 1955 – 1959 với những thành tựu lớn trong một thời gian ngắn, v.v…
Chúng tôi tin rằng những ai nắm vững NEP và đi sâu vào cuộc sống thì trên mỗi chặng đường, mỗi bước đi đều bắt gặp và được dắt dẫn bởi tư duy và phương pháp Hồ Chí Minh rất đặc trưng cho bản sắc chế độ mới mà nhân dân và Đảng ta hướng tới.
____________________
Tài liệu tham khảo:
1. V.I. Lênin. Toàn tập, tiếng Việt, t. 33, 34, 43, 44, 45, 53, 54.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam . Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá X về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong: “Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá X. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
3. Trần Ngọc Hiên. Chính sách kinh tế mới của Lênin và vận dụng vào điều kiện nước ta, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1988; Nxb. Sự thật, Hà Nội tái bản 1989.
4. Trần Ngọc Hiên (Chủ biên). Về thành phần kinh tế tư bản nhà nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.








