Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho KH&CN: Chính sách cần được phát huy
Nhu cầu đổi mới công nghệ và kết quả hỗ trợ các doanh nghiệp theo Nghị định 119
Theo báo cáo của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, tính đến thời điểm 1.7.2007, cả nước có 183.920 cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các doanh nghiệp nhà nước, cơ quan đoàn thể, hiệp hội và 3.751.158 cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể. Cũng theo báo cáo này, tỷ lệ doanh nghiệp đổi mới công nghệ còn rất hạn chế: Năm 2004, chỉ có 0,52% số doanh nghiệp trong ngành sản xuất thực phẩm, đồ uống và thuốc lá đổi mới công nghệ; trong ngành dệt may là 0,46% và trong ngành xây dựng là 1%. Những doanh nghiệp đổi mới công nghệ cũng chỉ tập trung vào những doanh nghiệp lớn (73% trong ngành sản xuất thực phẩm, đồ uống và thuốc lá; 100% trong ngành dệt may; 75% trong ngành xây dựng). Tổng chi phí cho đổi mới công nghệ trong ngành sản xuất thực phẩm, đồ uống và thuốc lá là 42,489 tỷ đồng, trong đó tỷ lệ đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm 8%; các con số tương tự của ngành sản xuất dệt may là 8,362 tỷ đồng và 4%; của ngành xây dựng là 9,179 tỷ đồng và 1%. Khi đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì việc đổi mới công nghệ nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập là yêu cầu cấp thiết đối với các doanh nghiệp. Thế nhưng, những con số trên đây cho thấy, tốc độ đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp của nước ta còn chậm so với yêu cầu khách quan. Mặt khác, đầu tư cho KH&CN từ ngân sách nhà nước hiện vẫn chiếm tỷ trọng lớn (0,5% GDP), trong khi đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước chỉ chiếm 0,1% GDP. Điều này có thể khẳng định, đầu tư cho KH&CN chưa được toàn xã hội quan tâm một cách thoả đáng, trong đó đối tượng chủ yếu cần hướng đến KH&CN là doanh nghiệp lại khá thờ ơ.
Ngày 18/9/1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 119/1999/NĐ-CP về một số chính sách và cơ chế tài chính khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động KH&CN. Nghị định ra đời với mục đích khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động KH&CN nhằm đổi mới, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Triển khai thực hiện Nghị định 119, trong giai đoạn 2002-2007, Bộ KH&CN đã phê duyệt kinh phí hỗ trợ cho 111 doanh nghiệp là 105,819 tỷ đồng (chiếm 13% tổng kinh phí để thực hiện các nhiệm vụ). Có tổng số 60 doanh nghiệp nhà nước (chiếm 54%) và 51 doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài nhà nước (chiếm 46%) được hỗ trợ. Trong tổng số 111 doanh nghiệp được hỗ trợ, có 55 doanh nghiệp thực hiện nghiên cứu tạo ra sản phẩm mới, công nghệ mới; 13 doanh nghiệp thực hiện nghiên cứu tạo ra sản phẩm thay thế nhập khẩu hoặc phục vụ xuất khẩu; 20 doanh nghiệp thực hiện nghiên cứu cải tiến công nghệ hiện có nhằm giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm; 2 doanh nghiệp thực hiện nghiên cứu công nghệ xử lý ô nhiễm môi trường; các doanh nghiệp còn lại được hỗ trợ thực hiện những công việc khác liên quan đến đổi mới công nghệ.
Những tác động tích cực của Nghị định 119 đối với doanh nghiệp
Mặc dù số doanh nghiệp được hỗ trợ theo Nghị định 119 chưa nhiều, song việc hỗ trợ đã đem lại nhiều lợi ích (cả trực tiếp và gián tiếp) cho doanh nghiệp.
Thứ nhất:Góp phần nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về vai trò của KH&CN trong pháttriển sản xuất kinh doanh, tạo ra một đòn bẩy kích cầu về công nghệ. Nghị định 119 đã thúc đẩy doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh trong bối cạnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng. Theo đại diện của Công ty Chế tạo Điện cơ Hà Nội thì Nghị định 119 ra đời đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc nghiên cứu khoa học, các doanh nghiệp tuỳ vào nhu cầu của mình mà đề xuất những đề tài một cách linh hoạt, phù hợp với thực tiễn (khác với các chương trình, đề tài/dự án lớn của Nhà nước). Ông Nguyễn Văn Thụ - Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp cơ khí Việt Nam cũng cho rằng, từ khi Nghị định 119 ra đời, hoạt động động KH&CN đã diễn ra sôi nổi ở một số doanh nghiệp cơ khí thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Nghị định 119 là con đường ngắn nhất, thuận tiện nhất để doanh nghiệp mạnh dạn cải tiến dây chuyền công nghệ, chế tạo các công cụ tiên tiến hơn nhằm tạo ra các sản phẩm mới có sức cạnh tranh cao. Nhờ có cơ chế khuyến khích theo Nghị định 119, nhiều doanh nghiệp đã nhận thức được rằng: KH&CN không phải là cái gì quá cao siêu, chỉ dành cho các nhà khoa học mà nếu tổ chức tốt bộ máy quản lý kỹ thuật của doanh nghiệp, kết hợp chặt chẽ với các nhà khoa học, các viện nghiên cứu, trường đại học thì sẽ tạo ra những dây chuyền thiết bị tiên tiến. Đồng tình với những quan điểm này, ông Nguyễn Tăng Cường - Giám đốc Xí nghiệp Cơ khí Quang Trung (Ninh Bình) cho rằng, Nghị định 119 đã góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng nói chung và của doanh nghiệp nói riêng về đổi mới công nghệ, tăng năng suất, tạo sản phẩm có chất lượng/hàm lượng KH&CN cao, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm/doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai:Nghị định 119 đã góp phần tạo ra những thiết bị/công nghệ có tỷ lệ nội địa hoá cao,những sản phẩm thay thế nhập khẩu với giá thành thấp hoặc xuất khẩu có tiềm năng lớn. Lần đầu tiên tại Việt Nam, chúng ta đã xây dựng được đà bán ụ 25.000 tấn phục vụ cho việc đóng tàu tải trọng lớn (từ 6.500 tấn đến 22.500 tấn) xuất khẩu sang Nhật Bản. Kết quả này của Công ty Đóng tàu Hạ Long đã góp phần nâng năng lực sản xuất của Công ty lên gấp đôi (đóng được 8 tàu/năm) với tổng giá trị lên tới 2.000 tỷ đồng/năm. Hiện nay sản phẩm còn đang được sử dụng trong việc đóng thử tàu container 610 TEU, tàu 30.000 tấn và 53.000 tấn để xuất khẩu. Đó là thành quả có một phần tác động của Nghị định 119. Việc hỗ trợ kinh phí cho Xí nghiệp Cơ khí Quang Trung đã góp phần nghiên cứu, thiết kế, chế tạo thành công cổng trục một dầm 450 tấn với chất lượng tương đương sản phẩm nhập ngoại nhưng giá thành rẻ hơn. Việc chế tạo thành công sản phẩm này đã làm lợi hàng chục triệu USD mỗi năm (giảm 30% chi phí), đồng thời là biện pháp bảo vệ sản xuất trong nước đối với ngành sản xuất sản phẩm cơ khí siêu trường, siêu trọng. Công ty Cổ phần Chế tạo Thiết bị điện Đông Anh cũng là một trong nhiều ví dụ về việc nghiên cứu, chế tạo các sản phẩm thay thế nhập khẩu với giá thành thấp. Từ việc thực hiện thành công đề tài nghiên cứu khoa học do nguồn kinh phí hỗ trợ theo Nghị định 119, năm 2003, Công ty và Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã đầu tư khoảng 70 tỷ đồng và đã chế tạo thành công máy biến áp 220 kV đầu tiên tại Việt Nam, được lắp đặt tại Sóc Sơn và từ đó đến nay máy vẫn hoạt động tốt, các thông số kỹ thuật của máy được đánh giá là tương đương máy biến áp cùng loại của nước ngoài nhưng giá thành giảm 17%. Đến nay, nhiều máy biến áp 220 kV đã được xuất xưởng và đưa vào vận hành tại Cao Lãnh (Đồng Tháp), Đồng Hới (Quảng Bình), Thái Nguyên...
Thứ ba:Nghị định 119 đã góp phần tạo lập mối liên kết giữa các viện nghiên cứu/trường đạihọc với các doanh nghiệp. Có thể nói, Nghị định 119 là cơ hội để các doanh nghiệp tận dụng thêm một phần kinh phí (30%) đầu tư cho KH&CN. Để có nguồn kinh phí này, doanh nghiệp phải qua sự xét duyệt chặt chẽ của các Hội đồng thẩm định chuyên môn. Điều này buộc doanh nghiệp phải liên kết với các nhà khoa học trong quá trình triển khai thực hiện đề tài. Theo ông Đoàn Xuân Trúc - Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng công ty Chăn nuôi Việt Nam, Nghị định 119 đã khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn tham gia nghiên cứu - triển khai, ứng dụng các kết quả KH&CN vào sản xuất kinh doanh; đồng thời nó cũng là cơ hội để các doanh nghiệp mở rộng hợp tác với các tổ chức nghiên cứu, chuyển giao công nghệ để đáp ứng ngay các đòi hỏi của sản xuất. Về vấn đề này, ông Nguyễn Văn Thụ cho rằng, Nghị định 119 đã tạo ra hiệu quả thực sự của việc nghiên cứu - triển khai, hiệu quả này được tạo nên bởi sự kết hợp hài hoà lợi ích giữa nhà khoa học - doanh nghiệp - nhà nước. Trong bối cảnh nguồn tài chính còn eo hẹp, nhiều doanh nghiệp đã năng động tìm cách kết hợp với các nhà khoa học trong các trường đại học/viện nghiên cứu để tính toán, thiết kế, đồng thời dựa trên các thiết bị sẵn có để chế tạo ra những thiết bị mới có tính năng tương đương sản phẩm nhập ngoại, tuy chưa được chau chuốt nhưng giá thành chỉ bằng khoảng 30-40% - ông Thụ khẳng định.
Thứ tư:Thông qua các Hội đồng thẩm định chuyên môn của những đề tài thực hiện theo Nghịđịnh 119, các doanh nghiệp đã được chính các nhà khoa học, chuyên gia trong cùng lĩnh vực, các nhà báo quảng bá, giới thiệu, marketing cho thiết bị, công nghệ, sản phẩm tạo ra. Nhiều doanh nghiệp còn được hướng dẫn đăng ký quyền sở hữu công nghiệp cho các sản phẩm. Đó chính là những hoạt động tuyên truyền, quảng bá mà doanh nghiệp đã không phải trả tiền khi thực hiện đề tài theo Nghị định 119.
Những tồn tại của Nghị định 119
![]() |
Một là:Việc thông tin tuyên truyền về các cơ chế và chính sách tài chính khuyến khích, doanhnghiệp trong hoạt động KH&CN theo các quy định của Nghị định 119 chưa được tiến hành thường xuyên và rộng rãi. Có thể nói, đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến số đơn đăng ký đề nghị hỗ trợ theo Nghị định còn hạn chế. Ông Nguyễn Văn Thụ cho rằng, nhiều doanh nghiệp chưa biết có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào KH&CN. Trong tình hình kinh doanh hiện nay, các doanh nghiệp cơ khí (phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ) chỉ đủ sức duy trì công ăn việc làm cho người lao động chứ không đủ năng lực tham gia vào việc đầu tư cho KH&CN. Vì thế, ông đề nghị cần hướng vào lực lượng này, vận động họ tham gia đề xuất các đề tài giúp cho sự phát triển của chính họ. Cũng về vấn đề này, ông Nguyễn Tăng Cường đề nghị cần hình thành kênh thông tin 2 chiều để doanh nghiệp có điều kiện phản ánh với cơ quan quản lý về những vướng mắc, khó khăn khi thực hiện Nghị định.
Hai là:Các vấn đề cần được giải quyết bằng KH&CN do các doanh nghiệp đề nghị Nhà nướchỗ trợ còn phân tán. Số các doanh nghiệp đề nghị hỗ trợ chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có vốn pháp định thấp nên khả năng huy động 70% vốn đối ứng từ nguồn vốn tự có để thực hiện đề tài nghiên cứu gặp nhiều khó khăn. Phần lớn các doanh nghiệp được hỗ trợ khoảng 1 tỷ đồng, cao nhất là 6,5 tỷ đồng cho 1 nhiệm vụ nghiên cứu. Vì vậy, kết quả nghiên cứu mới chỉ có tác dụng giúp doanh nghiệp phát triển trong thời gian trước mắt, chưa có tác dụng với sự phát triển về lâu dài của một ngành, một lĩnh vực. Phần lớn các doanh nghiệp được hỗ trợ cho rằng, cần tăng kinh phí hỗ trợ từ 30% như hiện nay lên 50-60% tổng số kinh phí để thực hiện đề tài. Theo ông Đoàn Xuân Trúc thì không nên cứng nhắc là dưới 30% như hiện nay mà cần linh động tuỳ theo nội dung nghiên cứu và địa bàn triển khai, có thể tỷ lệ này nâng lên tới 50-60%. Ông Trúc cũng đề nghị có chính sách tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay vốn ngân hàng theo hình thức vay trung/dài hạn với lãi suất ưu đãi đối với khoảng 50-60% kinh phí thực hiện đề tài, đồng thời cho vay vốn để doanh nghiệp quảng bá, chuyển giao kết quả nghiên cứu vào sản xuất.
Ba là:Các quy định về hồ sơ xin hỗ trợ, thủ tục cấp/thanh toán kinh phí hỗ trợ từ ngân sách nhànước cho các doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp. Mặt khác, do doanh nghiệp chưa quen với công tác hạch toán kế toán nguồn kinh phí sự nghiệp KH&CN nên việc bóc tách kinh phí nghiên cứu khoa học và kinh phí sản xuất kinh doanh để xác nhận kinh phí sử dụng cho nghiên cứu khoa học tại doanh nghiệp còn gặp khó khăn và mất nhiều thời gian. Việc xử lý và liên hệ với cơ quan quản lý cũng gặp những bất lợi do yếu tố địa lý. Chính vì những lý do này mà nhiều doanh nghiệp được hỗ trợ nhưng do chưa đáp ứng được các yêu cầu về cấp/thanh toán theo quy định nên mặc dù đã hoàn thành đề tài nhưng vẫn chưa được cấp/thanh toán kinh phí.
Giai đoạn 2002-2007, có 484 doanh nghiệp đề nghị được hỗ trợ theo Nghị định 119. So với hàng triệu doanh nghiệp cần đổi mới công nghệ thì con số này quả là quá khiêm tốn. Tác động tích cực của Nghị định 119 đã được khẳng định, song những tồn tại của nó cũng cần sớm được khắc phục để thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của các doanh nghiệp.









