Khoảng cách đưa thuốc kháng sinh hiệu quả & chi phí sử dụng
Khoảng cách giữa các lần đưa thuốc phụ thuộc vào chỉ dố dược động học
Tổng liều điều trị hàng ngày và khoảng cách giữa các lần đưa thuốc được căn cứ vào các chỉ số dược động học, nồng độ tối thiểu có hiệu quả và độc tính của thuốc. Các chỉ số này đã được nhà sản xuất nghiên cứu đối chứng và thử lâm sàng rất cẩn thận trong quá trình thử lâm sàng thực nghiệm để đưa ra khuyến cáo về liều dùng và khoảng cách đưa thuốc tối ưu cho bất cứ một loại thuốc nào trước khi tung ra thị trường. Vì vậy, trong lâm sàng, các thầy thuốc đều căn cứ trên lời khuyến cáo này để chọn nhịp đưa thuốc vào cơ thể bệnh nhân một cách hợp lý nhất. Mục đích của việc dùng thuốc là đạt được và duy trì nồng độ thuốc có hiệu quả tại mô đích mà không gây những phản ứng có hại cho cơ thể. Đối với việc sử dụng kháng sinh trong lâm sàng, nồng độ điều trị có hiệu quả được đánh giá bằng nồng độ ức chế tối thiểu trong nhiều loại mô và dịch khác nhau của cơ thể.
Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng thuốc, nhất là đối với thuốc kháng sinh, nhiều người đã không tuân thủ các khuyến cáo về nhịp đưa thuốc của nhà sản xuất. Một số nơi, do thói quen hoặc do cách làm việc theo giờ hành chính nên đã đưa thuốc hoặc là tăng số lần, hoặc là giảm số lần dùng thuốc trong ngày khiến cho việc dùng thuốc đôi khi bị lãng phí và tốn kém thêm cho người bệnh và thậm chí còn ảnh hưởng đến kết qảu điều trị cũng như tăng nguy cơ bị phản ứng có hại của thuốc. Đối với một số thuốc, sau một quá trình đưa vào sử dụng, người ta thấy rằng việc thay đổi nhịp đưa thuốc không những làm giảm chi phí sử dụng thuốc mà còn làm tăng hiệu qủa điều trị. Vì thế, đòi hỏi các thầy thuốc phải thường xuyên cập nhật kiến thức dược động học và dược lâm sàng của thuốc vào cơ thể bệnh nhân một cách tối ưu nhất.
Nếu thầy thuốc quan tâm nhiều hơn nữa đến việc điều chỉnh khoảng cách đưa thuốc vào cơ thể bệnh nhân sẽ có ảnh hưởng lớn không những hiệu quả của việc dùng thuốc mà còn đến chi phí của một liệu pháp điều trị.
Tiêm thuốc mỗi ngày mấy lần?
Một nghiên cứu khoa học từ năm 1984 trên 2.096 bệnh nhân điều trị cefotaxim dùng liều từ 0,5 g đến 2g với khoảng cách đưa thuốc từ 2 – 6 lần/ngày đã phát hiện tỉ lệ thành công về mặt lâm sàng và về mặt vi khuẩn học là tốt như nhau trong tất cả các phác đồ cho thuốc. Vì vậy, nghiên cứu này đã kết luận rằng, khoảng cách cho thuốc cefotaxim mỗi 12 giờ có tính an toàn, hiệu quả và kinh tế cao nhất. Điều này có liên quan đến một chất chuyển hoá của cefotaxim là desacetycefotaxim trong huyết tương là 2 giờ, do đó, nó đã kéo dài thêm khoảng cách lý thuyết của cefotaxim. Mặt khác, sự gắn kết với protein của cefotaxim, chủ yếu diễn ra tại đích, tức là mô và dịch nơi có vi khuẩn tồn tại, thấp hơn so với một số kháng sinh cùng nhóm. Những phần gắn kết này không có hoạt tính kháng khuẩn. Điều này cho thấy thành phần kháng sinh tự do, tức là phần có tính kháng khuẩn của cefotaxim cao hơn so với những kháng sinh khác cùng nhóm trong những nơi có vi khuẩn tồn tại (ví dụ dịch màng phổi).
Do đó, nếu sử dụng kháng sinh cefotaxim với liều 1 gam mỗi 12 giờ để điều trị cho các nhiễm khuẩn từ nhẹ cho đến khá nặng sẽ có giá thành điều trị giảm được hơn 30% so với cũng điều trị bằng cefotaxim liều 1 gam mỗi 8 giờ mà hiệu quả điều trị không thay đổi.
Đối với một số thuốc có nhiều tác dụng phụ có hại như kháng sinh họ aminoglycosid, khoảng cách cho thuốc rất quan trọng vì điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc giảm các nguy cơ nguy hiểm như độc tính với thận, ảnh hưởng đến thính giác (gây điếc cho người sử dụng). Với các aminoglycosid đang dùng phổ biến hiện nay như streptomycin, gentamicin, tobramycin, netylmycin.. chỉ đưa thuốc một lần trong ngày đối với tất cả liều thuốc lựa chọn vì hiệu quả điều trị của các aminoglycosid phụ thuộc chủ yếu vào nồng độ tối đa. Tổng liều trong ngày của aminoglycosid nên dùng 1 lần là tốt nhất nhằm đạt được nồng độ thuốc cao hơn trong máu thay vì dùng 2 - 3 lần/ngày. Điều này cần phải được cảnh báo đối với tất cả các cơ sở y tế vì thói quen đưa thuốc 2 lần trong ngày (sáng, chiều) vẫn còn phổ biến ở một số nơi. Ngay cả khi đối với kháng sinh ceftriaxon là một thuốc có phổ kháng khuẩn tương tự như cefotaxim nhưng có thời gian bán thải dài hơn cũng chỉ nên đưa thuốc 1 lần trong ngày đối với tất cả các liều chỉ định. Tuy nhiên, hiện nay, tại nhiều bệnh viện, kể cả tuyến trung ương vẫn có tình trạng tiêm ceftriaxon 2 lần trong ngày không những không nâng cao hiệu quả điều trị mà còn gây lãng phí trong việc dùng thuốc do chi phí cho dụng cụ tiêm truyền tăng lên, công phục vụ của nhân viên y tế nhiều gấp đôi.
Qua những ví dụ trên cho thấy, nếu cập nhật kiến thức sử dụng thuốc, thầy thuốc sẽ góp phần làm tăng hiệu quả điều trị, tăng tính an toàn của việc dùng thuốc mà lại giảm được chi phí điều trị cho bệnh nhân. Đối với người bệnh, giảm được số lần tiêm thuốc, đỡ được gánh nặng tiền thuốc, cơ thể được bảo đảm an toàn hơn mà hiệu quả điều trị vẫn không thay đổi thì còn gì quý bằng.