Khảo nghiệm thành công giống đậu tương mới phù hợp trên đất một vụ
Để tiếp tục nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất đậu tương trên đất 1 vụ của tỉnh Hà Giang, được sự nhất trí của UBND tỉnh, Viện Di truyền Nông nghiệp triển khai Đề tài khoa học “Nghiên cứu ứng dụng giống đậu tương mới chịu hạn, năng suất cao, phù hợp trên chân đất 1 vụ của tỉnh Hà Giang” theo Quyết định phê duyệt số 613/QĐ-UBND ngày 08/3/2010, do PGS. TS. Mai Quang Vinh chuyên gia đầu ngành về cây đậu tương Việt Nam làm chủ nhiệm.
Với mục tiêu xác định được 2 giống đậu tương mới đạt năng suất 25 – 30 tạ/ha và quy trình canh tác phù hợp với điều kiện đất 1 vụ của tỉnh Hà Giang, góp phần mở rộng diện tích đậu tương trên đất 1 vụ của tỉnh Hà Giang từ 19,9 ngàn ha (năm 2008) lên 25 ngàn ha, năng suất từ 10,3 tạ/ha lên 15,0 tạ/ha trong 5 năm tới, giải quyết công ăn việc làm, tăng hiệu quả sử dụng và cải thiện độ phì nhiêu của đất.
Đề tài chọn 3 huyện đặc trưng đại diện cho 3 tiểu vùng khí hậu của tỉnh Hà Giang gồm: huyện Xín Mần đại diện cho khí hậu vùng núi đất phía Tây, huyện Yên Minh đại diện cho khí hậu tiểu vùng giữa thuộc vùng cao núi đá phía Bắc, huyện Đồng Văn đại diện vùng cao núi đá cực Bắc.
Với 7 giống đậu tương tham gia các thí nghiệm tuyển chọn giống là ĐT26, DT29, DT2001, DT2006, DT208, DT84 (ĐC 1), VXHG (ĐC 2) tại hai vụ xuân và thu đông năm 2010 trên đất 1 vụ tại các huyện triển khai, các chuyên gia của Viện Di truyền Nông nghiệp đã xác định được 2 giống triển vọng cho năng suất cao phù hợp với điều kiện sinh thái, canh tác của Hà Giang là DT2008 và ĐT26. Tiếp tục tiến hành thí nghiệm về phân bón, mật độ, thời vụ thích hợp cho 2 giống triển vọng ở từng địa điểm (thí nghiệm Quy trình canh tác). Kết quả khảo nghiệm đã cho thấy giống đậu tương triển vọng DT2008 có khả năng chống chịu tốt với các loại sâu, bệnh và điều kiện bất thuận, chịu hạn, chịu rét tốt (vụ xuân tại Xín Mần) sinh trưởng phát triển mạnh, năng suất trong thí nghiệm với các điều kiện khó khăn đã đạt 15 – 18 tạ/ha, trong điều kiện thuận lợi có thể đạt 20 – 25 tạ/ha (thời gian sinh trưởng vụ xuân từ 81 – 85 ngày). ĐT26 có thời gian sinh trưởng ngắn hơn, chống chịu khá, năng suất đạt 15 – 20 tạ/ha (thời gian sinh trưởng vụ xuân từ 90 – 100 ngày, vụ hè thu từ 70 – 80 ngày).
Các nhà khoa học của Viện cũng đã xây dựng thành công quy trình canh tác cho 2 giống triển vọng ĐT26 và DT2008 phù hợp với điều kiện đất 1 vụ của Hà Giang. Lượng phân bón thích hợp cho 2 giống là 1,8 tấn phân chuồng + 30 kg N + 60 kg P 2O 5+ 60 kg K 2O cho 1 ha. Vụ Xuân mật độ của ĐT26 và DT2008 là 30 cây/m 2. Vụ Hè thu, mật độ ĐT26 là 30 cây/m 2và DT2008 là 20 cây/m 2. Ngoài ra trong quá trình khảo nghiệm đã tập huấn nâng cao cho 150 người dân nắm vững kiến thức gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch và bảo quản đậu tương.
Như vậy, sau 2 vụ (xuân và thu đông năm 2010) khảo nghiệm rất khó khăn do thời tiết, khí hậu bất thuận đề tài đã thu được các kết quả cơ bản phù hợp mục tiêu ban đầu đặt ra, giống đậu tương DT2008 và ĐT26 cho năng suất cao hơn từ 1,5 – 2 lần so với các giống cũ tại địa phương đang trồng, bước đầu đã tỏ ra thích hợp với các điều kiện sản xuất khó khăn của đất 1 vụ của các huyện vùng cao Hà Giang. Cũng từ những kết quả đó, vụ thu đông năm 2010 đã có 3 huyện mở rộng mô hình đậu tương DT2008: huyện Đồng Văn có 10 xã thực hiện mở rộng 5 ha năng suất trung bình 15 – 17 tạ/ha, cao nhất đạt 22 – 25 tạ/ha, Xín Mần (1ha tại xã Cốc Pai đạt 14 tạ/ha cao gấp 2 lần DT84), Bắc Mê (6ha tại xã Đường Hồng đạt 16 tạ/ha). Mô hình là giải pháp khoa học giúp cho các địa phương chỉ đạo sản xuất góp phần tăng thu nhập cho các nông hộ, làm thay đổi quan điểm cũ coi cây đậu tương là cây trồng phụ. Nếu chăm sóc đúng cách, cây đậu tương DT2008 sẽ mang lại lợi ích kinh tế cao hơn nữa và hoàn toàn thay thế các giống cũ. Đây là tín hiệu đáng mừng, thiết thực góp phần nâng cao năng suất đậu tương từ 11 tạ/ha hiện nay lên 16,1 tạ/ha, diện tích từ 21 ngàn ha lên 25 ngàn ha phục vụ Đề án phát triển cây đậu tương, giai đoạn 2011 – 2015 và tầm nhìn đến 2020 của tỉnh.








