Hùng Vương tổ miếu
Sách của bộ Lễ nhà Lê do người thôn Lương Yên (?) sao lại vào năm Cảnh Hưng thứ 24 (1763) có tên là “Nam Việt thần kỳ hội lục” chép về 2.824 vị thần được thờ trong cả nước, trong đó có 73 xã thôn thờ Hùng Vương và tướng của Hùng Vương. Nhưng chỉ có đình thôn Việt Trì thờ Thánh Tổ Hùng Vương và làng An Thái tổng Phượng Lâu huyện Phù Khang, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây là có Hùng Vương Tổ miếu.
Năm Bính Tuất (1886) thực dân Pháp chiếm đóng Việt Trì, chúng rời đình Việt Trì vào phố Hoà Bình phường Thanh Miếu ngày nay. Năm 1948, giặc Pháp tái chiếm, chúng đã đốt đình Việt Trì, chỉ còn Hùng Vương Tổ miếu là ngôi miếu cổ nhất với kiến trúc độc đáo và có một không hai ở nước ta. Không biết ngôi cổ miếu này xây dựng từ bao giờ, đã trùng tu mấy lần? nhưng kiến trúc giống kiểu nhà sàn khắc trên trống đồng. Đó là nhà sàn của thời đại Hùng Vương.
Miếu không to lớn, chiều dài chỉ có 5m, rộng 3m, bốn góc là 4 cột lim to, đường kính đến 35cm, mặt sàn lát gỗ, cách mặt đất 80cm, xung quanh đóng đố thưng ván. Hiện nay, gỗ ở 2 đầu hồi đã mọt và rộp nên các cụ trong Ban Quản lý Di tích đã xây là lợp hai mái ngói trùm lên để bảo vệ. Trong miếu có 3 bát hương cổ bằng đất sét nung và 3 cỗ ngai đề:
Ất Sơn Đại vương
Viễn Sơn Đại vương
Áp Đạo Đại vương
Bên ngoài đề : Hùng Vương Tổ miếu.
Hai bên là hai câu đối:
Miếu mạo thọ sơn hà
Linh thanh chương nhật nguyệt
Tạm dịch:
Miếu này còn cùng sông núi
Tiếng linh thiêng rõ như mặt trăng mặt trời.
Dân địa phương thường gọi di tích này là: “Ngọc am” (nơi thờ cúng) hoặc “Miếu Cấm” (miếu ở rừng Cấm). Chúng tôi được nghe rất nhiều huyền thoại về vùng đất này.
Ngôi miếu được dựng trên đỉnh Núi Cấm, có khoảng đất bằng phẳng. Ở đây các già làng kể là Núi Cấm rộng tới 6ha, ngày xưa rất rậm rạp, nhiều cây cổ thụ, 2-3 người dang tay ôm không xuể, nhiều muông thú sinh sống, thậm chí có cả hổ, báo. Xung quanh núi có đầm nước sâu bao bọc, mùa mưa sâu tới 4-5m, mùa cạn cũng sâu tới 2-3m. Đầm rộng mênh mông, nước từ Đền Hùng đổ về và thông với sông Lô, có rất nhiều tôm cá…
Ngày nay, dân An Thái gọi là Đầm Thiếc. Trước đây vào Núi Cấm chỉ có một con đường đất nằm về phía đông-bắc, phải đi qua Núi Trống, nơi có người canh gác. Giao thông chủ yếu của dân làng là thuyền độc mộc. Và chỉ có làng An Thái có loại thuyền này cũng chỉ có dân An Thái biết bơi thuyền này.
Ngọc phả làng An Thái có chép:
Thời các vua Hùng, các Lạc tướng thay nhau trấn giữ vùng đất này. Những khi bàn việc cơ mật quốc gia, vua Hùng triệu tập các Lạc hầu, Lạc tướng đến Núi Cấm, tuyệt đối không ai được lai vãng. Đời sau dựng miếu thờ các vua Hùng. Dân làng cử người trông coi Núi Cấm gọi là Khán Lâm. Hiện nay ở An Thái còn lưu danh được 14 vị Khán Lâm có tài nổi tiếng. Sau đó dân làng lập đình, dựng chùa để thờ cúng. Hàng năm lễ hội của làng được tổ chức vào ngày 9 tháng 9 âm lịch.
Ngọc phả làng An Thái còn cho biết thời Hùng Vương, ở đây có nàng Quế Hoa nổi tiếng xinh đẹp, hát hay múa dẻo, ai cũng khen là người tài hoa. Khi ấy, Nguyệt Cư - con vua Hùng Vương thứ 17 - sinh ra được 3 ngày, nhưng cứ khóc suốt ngày đêm, các danh y đều bó tay! Sau nhờ có tiếng hát của nàng Quế Hoa mà Nguyệt Cư khỏi bệnh. Vua Hùng hết lời khen ngợi Quế Hoa, mới bảo các mỵ nương học lấy điệu hát ấy và sẽ hát vào đầu mùa xuân. Từ đấy có tục hát xoan (vì Xuân là tên vợ vua, nên gọi chệch là xoan). Điệu hát này được truyền đi các thôn xã xung quanh như Kim Đới, Thét, Phù Đức nay là xã Kim Đức thành phố Việt Trì, truyền đến cả làng Thời Mại nay là xã Cao Mại huyện Lâm Thao - Phú Thọ. Hát xoan trở thành điệu hát độc đáo của quê hương đất tổ Hùng Vương, mà tương truyền Quế Hoa làng An Thái là bà tổ của điệu hát này.
Trải qua những biến cố của lịch sử, An Thái vẫn tồn tại, vẫn đứng vững. Ngọc phả xã Lâu Thượng do Hàn lâm viện Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn năm Hồng Phúc thứ 2 (1573) có chép: bà Trưng Trắc, Trưng Nhị về chùa Bối Linh giả làm Ni sư để che mắt quân thù. Bà Trưng Trắc viết hịch, sai em là Trưng Nhị truyền đi các nơi. Trong bản hịch có đoạn viết:
“Nay Tô Định là Thái thú Châu Giao tham tàn, hiếu sắc, hiếp vợ, giết chồng, thần dân đều oán giận… Ta nay vâng mệnh trời, thuận lòng người, dấy nghĩa diệt loài vô đạo, đuổi lũ ngoại xâm… dựng cờ tự chủ.
Hịch văn đến đâu, không kể thổ hào, trai gái đều nên tự khởi binh hay tự chiếm lấy châu quận, phủ huyện, hạt mình… sau sẽ chọn quân tinh nhuệ đến hội tại Hát Môn, tiêu diệt giặc Hán…”.
Các thổ hào tù trưởng quanh kinh đô Văn Lang, vùng ngã ba Bạch Hạc cùng dân binh các làng xã tự sắm vũ khí nổi dậy. Bà Trưng đã tuyển lựa được vào đạo quân 6.000 người làm lễ xuất quân ở Bến Vò, cạnh chùa Bối Linh, kéo về Hát Môn làm lễ tế trời đất, tiến quân tiêu diệt giặc Tô Định. Như vậy thời Hùng Vương đưa dựa vào thế đất ở ngã ba Việt Trì - Bạch Hạc dựng kinh đô Văn Lang, mở nước. Tể tướng Lữ Gia năm 111 trước công nguyên đã dựa vào kinh đô Văn Lang xây dựng phòng tuyến chống giặc Hán. Năm 39 sau công nguyên hai Bà Trưng cũng về cố đô Văn Lang lập căn cứ địa, phát hịch, chiêu nạp nghĩa quân để chống Tô Định nhà Hán.
Năm Giáp Tuất - 1994, nhân dân An Thái trùng tu ngôi chùa. Trước cửa có một cây đại cổ thụ, cành lá sum suê. Bên cạnh gốc đại, trong khi đào móng thấy 4 phiến đá. Phiến đá dài nhất: 1,20 x 0,40 x 0,15m. Ba phiến đá đều có vết mòn hoẵm xuống, được xác minh là vết mòn mài binh khí. Còn phiến ngắn nhất dài 0,60m trên mặt có nhiều dấu vết kỳ lạ, rêu xanh phủ kín. Sau khi cọ, rửa rất cẩn thận, nhưng không nhận ra được những hình trên đó. Phiến đá dài nhất có khắc 2 hàng chữ Hán:
- Phất kỳ hịch tấn hiệu Nam bang.
- Bạt kiếm ma đao trừ Bắc tặc.
Tam dịch:
Phất cờ truyền hịch kêu gọi người nước Nam
Tuốt kiếm, mài dao trừ giặc phương Bắc.
Hiện nay người An Thái còn lưu truyền câu ca:
“Ai hỡi qua đây dừng gót ngọc
Mà xem Trưng nữ phất cờ hồng
Tuốt kiếm, mài gươm trên phiến đá
Diệt trừ Tô Định giữ non sông
Dấu ấn ngày xưa còn lưu niệm
Xứng danh con cháu giống Lạc Hồng”.
Rõ ràng Bà Trưng đã đến làng An Thái yết bái Hùng Vương Tổ miếu và tổ chức dân binh. Trai tráng làng An Thái đã nổi dậy, tự sắm sửa vũ khí theo hai Bà Trưng khởi nghĩa giành lại nền độc lập dân tộc. Những vết mài binh khí trên các phiến đá là một minh chứng sinh động cho sự kiện nói trên.
Nguồn: Dân tộc & Thời đại, số 89, tr 8-9








