Hơn 170 năm trước một dự thảo Hiệp ước thương mại Hoa Kỳ - Việt Nam bị bở lỡ
Ngày 21-5-1803 chiếc tàu Fame của Công ty Crowninshiel of Salem, Massachusetts, do thuyền trưởng Jeremiah Briggs chỉ huy, buông neo tại cảng Đà nẵng. Đó chính là chiếc tàu buôn mang cờ Mỹ đầu tiên đến Việt Nam để tìm kiếm luồng hàng mới là đường và cà phê cung cấp cho thị trường Hoa Kỳ. Từ đó cho đến cuối những năm 20 của thế kỷ XIX nhiều tàu buôn của các công ty buôn bán Hoa Kỳ thường lui tới các hải cảng Việt Nam để tìm nguồn hàng, đặt thương điếm buôn bán nhưng đều không có kết quả. Đến đầu thập kỷ 30 của thế kỷ XIX nhu cầu buôn bán của các công ty tư nhân với các nước phương Đông phát triển mạnh và trở thành nhu cầu của nước Mỹ, bởi hàng năm nước Mỹ thu về 5 triệu đô la từ việc buôn bán với Ấn Độ và Trung Hoa. Vì thế mà lãnh sự Mỹ tại Batavia (Inđônêsia) là John Shillaber đã liên tục gửi thư cho Bộ Ngoại giao thúc dục Bộ xem xét việc gửi các đội tàu giương cờ Mỹ tới Ấn Độ Dương để bảo vệ mậu dịch Mỹ và ký kết các hiệp định thương mại với Xiêm, Nhật Bản và Việt Nam. Do đó mà có chuyến đi của Edmund Robert, đặc phái viên của Tổng thống Mỹ Andrew Jackson tới Việt Nam năm 1833, khởi đầu một thời kỳ mới trong quan hệ Việt-Mỹ, quan hệ giữa hai nước, hai chính phủ.
Chính phủ Mỹ đã chuẩn bị cho chuyến đi tới Việt Nam hết sức chu đáo. Trước tiên là tìm người thực hiện sứ mạng trọng đại đó. Tổng thống Mỹ đã chấp nhận lời đề nghị của Bộ trưởng Bộ Hải quân Mỹ Woodburg cử Edmund Robert làm “đặc phái viên tới biển Ấn Độ”. Edmund Robert sinh ra và lớn lên ở Portmouth, New Hampshire. Ông theo nghiệp buôn bán, trưởng thành từ một thương nhân, một Supercargo. Sau nhiều nỗ lực ông đã thành công trong việc thiết lập lãnh sự Mỹ tại Demerara, trên bờ biển Đông phi. Khi ông trở về quê hương, đã đề xuất với Thượng nghị sĩ Mỹ, về sau là Bộ trưởng Bộ Hải quân, một ý tưởng hay là tìm mọi cơ hội để thương lượng và ký hiệp định thương mại với các nước ở Đông Ấn. Ý tưởng của E.Robert phù hợp với lợi ích của nước Mỹ đầu những năm 30 của thế kỷ XIX, vì thế mà Tổng thống Andrew Jackson chọn ông thực thi sứ mạng người mở đường buôn bán với Việt Nam.
Ngày 27-1-1832, E.Robert đến Washington và đã nhận tại Bộ Ngoại giao Mỹ những giấy tờ quan trọng cho chuyến đi, gồm có: Chỉ thịcủa Ngoại trưởng Mỹ Edward Livingston, Quốc thưcủa Tổng thống Andrew Jackson, bản dự thảo hiệp định thương mại với Việt Nam, Hộ chiếu, Hóa đơn vận chuyểncác tặng phẩm cho các vị vua chúa ngoại quốc.
Trong Quốc thưcủa Tổng thống Mỹ Andrew Jackson Hoàng đế Ming Mạng, được viết tại Washington ngày 26-1-1832có đoạn:
“Người dâng lá thư này lên Hoàng thượng là Edmund Robert, một công dân đáng kính của Hoa Kỳ, được cử làm đặc phái viên của Chính phủ Hoa Kỳ thương thuyết những công việc quan trọng với Hoàng thượng. Mong Hoàng thượng che chở cho anh ta thực thi chức phanạ được giao phó, đối đãi tử tế với anh ta và tin vào những điều nhân danh chúng tôi anh ta sẽ tâu lên Hoàng thượng…” (1).
Trong bản Chỉ thịcủa Ngoại trưởng Mỹ Edward Livingston cho E.Robert, có đoạn:
“Khi ông vào Ấn Độ Dương từ phía Đông thì chỗ đầu tiên mà ông thực thi bổn phận của mình sẽ là xứ Cochinchina (Việt Nam ). Ông sẽ đi Huế, kinh đô xứ này… đến đấy, với khả năng của mình, tự ông sẽ trình diện trước nhà vua và dâng thư của Tổng thống cho nhà vua. Ông sẽ phải nói rằng Tổng thống chúng tôi biết tiếng nhà vua rất coi trọng công lý và muốn thúc đẩy việc buôn bán để cải thiện đời sống cho thần dân, nên đã cử tôi tới đây để thương lượng với nhà vua…” (2).
Bản dự thảo Hiệp định thương mạimà phía Hoa Kỳ chuẩn bị gồm 8 điều khoản. Điều khoản1,đề cập tới một nền hòa bình bền vững giữa Hoa Kỳ và Việt Nam là hai nước đã ký vào bản Hiệp định buôn bán này. Điều khoản 2 đề cập đến công dân Hoa Kỳ được tự do cho tàu thuyền cùng hàng hóa vào các hải cảng Việt Namvà được tự do buôn bán trực tiếp với người Việt Namvà công dân Hoa Kỳ tự do rời khỏi Việt Nam vào bất kỳ lúc nào họ muốn… ĐiềuKhoản 8nói tới việc Tổng thống Hoa Kỳ có thể bổ nhiệm lãnh sự đóng ngay tại các hải cảng Việt Nam để bảo vệ quyền lợi của công dân Hoa Kỳ đang buôn bán ở đây (3).
Sau khi đã chuẩn bị chu tất, E.Robert cùng với chiếc tàu Peacock rời Boxton tháng 3 năm 1832. Sau khi ghé qua Philipin và Trung Quốc, tàu Peacock đến vịnh Đà Nẵng trong lúc thời tiết xấu. Sau 4 ngày buông neo ngoài khơi Đà Nẵng, gặp gió mùa thổi mạnh, tàu trôi giát về phía Nam và cuối cùng ghé vào cảng Vũng Lắm, Phú Yên. Các quan sở tại lên tàu, tiếp nhận giấy tờ và thông báo về triều đình Huế. Ngày 17-1-1833, Thượng thư Nguyễn Tri Phương và Tham tri Lý Văn Phúc từ Huế vào làm việc với E.Robert cho đến ngày 8-2 mà hai bên không hiểu nhau.
Trong bản tường trình về sứ mệnh đầu tiên của mình viết từ Batavia ngày 22-6-1833, E.Robert
chỉ ra những nguyên nhân cản trở sự hiểu biết lẫn nhau như sự khác nhau về văn hóa, không gặp thời (gió mùa to không đi được Huế), và đặc biệt, ở đoạn tái bút ông có lưu ý một vấn đề là: “Tôi không thể không nói rằng tặng phẩmlà thứ cần thiết ở các xứ này và nó được xem như là dấu hiệu của sự tôn kính, nó thể hiện địa vị của người biếu cao hay thấp là tùy vào giátrịcủa vật biếu. Ở cả hai nước, Việt Nam và Xiêm La, trong số những câu hỏi cửa miệng là “Ngài có tặng vật gì cho nhà vua?” được xem như là một cách ứng xử để anh không phải đến tay không” (4).
Nguồn tài liệu nhà Nguyễn có miêu tả cuộc tiếp xúc trên như sau:
“Mùa Đông, tháng 11, Minh Mạng năm thứ 13.
Tổng thống nước cộng hòa Nhãdily nằm bên bờ Đại Tây Dương, còn có các tên khác nữa là Hoa Kỳ, Malican, Tân Anh Cát Ly, đã phái thuộc hạ là ông Nghĩa đức môn La bách, thuyền trưởng tàu Đức giai Tam gia và thủy thủ đoàn đến nước ta, dâng thư xin lập quan hệ với ta. Tàu của họ buông neo ở Vũng Lắm, cảng Phú Yên. Triều đình cho Thượng thư Nguyễn Tri Phương và Tham tri Lý Văn Phúc cùng với quan sở tại lên tàu và thiết tiệc chúc mừng. Khi được hỏi về mục đích đi mấy người ngoài quốc này trả lời rằng họ có ý định thiết lập quan hệ buôn bán thân thiện. Họ nói nghe có vẻ cung kính và lịch lãm, nhưng khi dịch lá thư ra thì hình như mắc nhiều lỗi tạo từ, thiếu chặt chẽ. Lệnh ban từ triều đình là: “Không tiếp nhận thư gửi Hoàng thượng. Hai phái viên Nguyễn Tri Phương và Lý Văn Phúc được phép sắm vai quan chức Bộ Ngoại thương trả lời ngắn gọn theo hướng này cho những người Malican: “Qúy quốc đề nghị thiết lập buôn bán với chúng tôi. Chúng tôi chắc chắn quyết không chống lại mối giao bang như vậy. Nhưng mặt khác, các ông cũng phải nghiêm chỉnh tôn trọng luật lệ hợp thời đang được áp dụng ở nước chúng tôi. Từ nay về sau, khi tới nước chúng tôi, tàu của các ông sẽ bỏ neo ngoài vịnh Trà Sơn. Trong mọi trường hợp, các ông không được dựng nhà trên đất liền. Nếu các ông làm vậy, là các ông sẽ đi quá giới hạn của phép nước” (5).
Không thành công trong chuyến công cán đầu tiên, tháng 3-1835, Edmund Robert cùng với hai chiếc tàu Peacockvà Enterpiriserời Boxton đi Việt Nam trong sứ mạng thứ hai. Hai chiếc tàu của E.Robert buông neo ở Vịnh Đà Nẵng ngày 14-5-1835. Khi các quan sở tại lên tàu, mặc dù không có phiên dịch, Robert cố gắng dùng điệu bộ truyền đạt mục đích chuyến viếng thăm và trao lá thư bằng tiếng Pháp và tiếng Anh gửi triều đình Huế và đề nghị được phúc đáp sớm vị E.Robert đang ốm và bệnh tình đang lây lan cả hai tàu. Lần này nữa, hai bên không hiểu nhau. E.Robert ngậm ngùi rời biển Việt Nam và mất ở Ma Cao ngày 12-6-1836mang theo về cõi vĩnh hằng sự nuối tiếc là chưa hoàn thành sứ mạng được giao phó.
Như vậy, sự thất bại của hai chuyến đi của E.Robert không thuộc về ông và chính phủ Hoa Kỳ mà thuộc về phía triều đình Huế. Một cơ hội thiết lập quan hệ thương mại với Hoa Kỳ đã bị triều đình Huế dưới thời Minh Mạng khước từ, bỏ qua bởi các chính sách “Bế quan tỏa cảng”, “ức thương” thiển chận của triều đình. Ta hãy nghe cuộc đàm luận sau đây giữa vua Minh Mạng và các quan đại thần trong triều khi nhận được thư của E.Robert năm 1835, cho ta hình dung được phần nào nguyên nhân thất bại của các cuộc viếng thăm của đặc phái viên chính phủ Mỹ.
“ Vua Minh Mạng : Trẫm thấy ý định và từ ngữ của bọn người này rất cung kính và lịch lãm, chẳng lẽ không xứng được ban những lời chúc tụng hay sao?
Đào Trí Phú, đại thần Bộ Lại : Tâu Hoàng thượng, bọn họ là người ngoại quốc và chúng ta không thể nào biết được tình cảm mà họ biểu hiện ra thật hay giả. Hạ thần nghĩ rằng có thể cho phép họ tới kinh đô và cho họ chỗ nghỉ trong Cục Thương bạc và dụ cho quan lại đỗi đãi tốt với họ và dò la ý định của họ”.
Hoàng Quýnh, đại thần Nội các : Tâu Hoàng thượng, dân tộc này rất xảo trá và đó là lý do tuyệt giao với họ. Nhân nhượng họ lần này sẽ tạo ra sự rắc rối cho chúng ta nay mai. Các bậc tiền nhân thời xưa cho đóng cửa biên giới đất nước là để không đón tiếp người từ các nước Tây Dương tới và để chống lại sự xâm lăng của bọn kẻ cướp. Đó là một chính sách tốt” (6).
Vậy là đã rõ, Một phía, dù có nỗ lực đến đâu mà phía bên kia không đáp lại, hoặc đáp lại không có thiện chí, đều là vô ích. Nỗ lực của Hoa Kỳ trong nhiều năm nhằm thương lượng và ký kết hiệp định thương mại với Việt Nam đã không dẫn tới một kết cục tốt đẹp. Nhà Nguyễn, từ Minh Mạng trở đi, với sự đố kỵ, khư khư ôm lấy chính sách đóng cửa, đã cự tuyệt buôn bán với các nước phương Tây như Anh, Pháp, Mỹ. Mọi cơ hội làm giàu đất nước đã bị bỏ qua. Chính sách đó đã góp phần làm nghèo đất nước, đã đẩy đất nước tới họa xâm lăng, và khi bị xâm lăng thì mất nước.
_________________
1,2,3,4. Dẫn theo: Robert Hopkins Miller. The United Statesand Vietnam 1787-1941. Washington D.C, 1990.
5,6. Dẫn theo: Bulletin des Amis du Vieux Hue . 1937.
Nguồn: Xưa và Nay, số 95, tháng 7-2001.








