Hội thảo tại Paris: “Hà Nội, nghìn năm lịch sử”
Cuộc hội thảo này do sáng kiến của các trường đại học và tổ chức Pháp, được tổ chức rất hoàn hảo do các Giáo sư Yves Tertraiss và Pierre Journoud chủ trì, đã tập hợp được khoảng 20 tham luận trước một cử toạ chăm chú, trong đó có một vài nhà nghiên cứu nước khác, nhưng phần lớn là những người ở Pháp đã duy trì công việc nghiên cứu Việt Nam một cách sống động. Sự vắng mặt các giáo sư đại học Việt Nam tuy đã được dự kiến trong chương trình, cho thấy lịch làm việc rất dày đặc của những hoạt động quan trọng giữ chân họ lại, khiến họ không thể đến được hội thảo.
Giữa hoài niệm và hiện đại, việc chiếu bộ phim tài liệu của Patrick Moreau Lạc bước giữa Hà Nộiđã tạo nên nhịp độ tiến triển của những tranh luận, nghĩa là một sự tiếp cận lịch đại về cấu trúc của Hà Nội, về không gian đô thị và biểu trưng của quyền lực, nhưng còn có cả những thách thức trước mắt của một thủ đô trưởng thành.
Tiểu ban thứ nhất, “Bước khởi đầu của một kinh đô” đặt ra khung cảnh địa lý và qui chế của sự chọn lựa. Philippe Papin nhấn mạnh rằng trước kia không gian đô thị, khu 36 phố phường, thực tế là có đủ loại và ít có tính chất tự trị, mỗi phường đều thuộc về làng gốc của những người định cư. Hơn nữa, so sánh chế độ đất đai của các khu phố khác nhau, ta thấy nổi lên không gian rộng lớn của thành phố được phân thành hai khu vực rõ rệt. Khu vực đô thị thực sự với đất tư chiếm đa số và một khu vực nông thôn bao la, bộ phận gắn liền nuôi dưỡng thành phố với đất công chiếm chủ đạo. Đặc trưng đó tạo thành vật cản cho mọi sự đổi thay, “bó chặt” không gian đô thị, ngăn cản việc mở rộng địa giới thành phố, và diễn ra cho đến tận đầu thế kỷ XX. Đúng là hệ thống thuộc địa, áp đặt một trật tự khác mà không đếm xỉa đến tập quán, đã cho phép vạch ra qui mô thành phố và những trục phát triển của nó. Alain Forest nhấn mạnh những câu chuyện của các vị thừa sai cho thấy một vài mô tả Thăng Long thế kỷ XVII, vài sơ đồ đã được biết, nhưng chưa đủ để cho ta dựng lên một hình ảnh bao quát của thành phố. Tóm lại, hồ sơ của các vị thừa sai cũng mắc những sai lầm như biên niên hoàng gia Việt Nam , rất cụ thể về đời sống cung đình và tầng lớp quan lại, nhưng lại ít mô tả cuộc sống hàng ngày của người dân thường. Cuộc sống lao động của những nghề thủ công hầu như không thay đổi, qua những hình vẽ trong bộ sưu tập của Henri Oger gần đây được tái bản do Philippe Le Failler giới thiệu.
Về “Khuynh hướng của Thăng Long”, Hoàng Anh Tuấn nghiêng về vai trò tiên phong của Công ty Đông Ấn Hà Lan, 1637-1700, để nhấn mạnh việc dừng chân của công ty ở Phố Hiến, trước hết là nhằm bảo vệ Thăng Long thoát khỏi ảnh hưởng của nước ngoài bằng cách đẩy họ ra vùng biên. Những con số nêu lên cho phép nhìn nhận trên thực tế sự thăng trầm của thương mại, tơ lụa Việt Nam bán sang Nhật Bản và Inđônexia, rồi mua bạc và kim loại về, và sự tham gia mạnh mẽ hơn vào thương mại quốc tế không như ta nghĩ.
Bản chất của chế độ thuộc địa được một người Mỹ trình bày, Michael G. Vann, đưa ra một tóm tắt các biện pháp thực dân và những bất công của nó, ngay trong lòng Hà Nội trên lý thuyết là được hưởng chế độ tư pháp “của Pháp” tự do hơn những nơi khác của nền bảo hộ. Vấn đề của ông được tham luận của Johann Grémont mở rộng thêm, bằng việc đưa ra những con số thống kê tình hình phạm tội ở Hà Nội những năm 1930 và những bản án hình sự. Nếu tội giết người xảy ra ít, thì trộm cắp lại thường xuyên, đặc biệt là ở những người giúp việc. Tóm lại, vào thời đại của độc quyền, tội ác gắn liền với thuốc phiện (buôn lậu, làm hàng giả hay không có môn bài) không phải là nhỏ. Lịch sử đảo điên của thành phố, “thủ đô của chiến tranh, thủ đô trong chiến tranh”, được Francois Guillemot trình bày trong một bài rất đầy đủ về thời kỳ 1945-1946, nêu lên các tác nhân khác nhau của Việt Nam, với những sự kiện nhạy cảm khác nhau, nhưng tất cả đều theo chủ nghĩa quốc gia, mà ưu thế của các bên đôi khi không rõ rệt. Năng lực tổ chức, ý chí và nhất là khả năng nắm bắt khi thời cơ đến của Việt Minh đã khiến cho cán cân lịch sử đảo ngược hoàn toàn. Với giai đoạn kéo cho đến 1975, Pierre Asselin, dựa trên những tư liệu của Mỹ, đã trình bày những điều kiện địa – chính trị mà Việt Nam phát triển, và mối quan hệ với Bắc Kinh và Matxcơva. Vào thời đó, nước Pháp vẫn giữ một đại diện ngoại giao ở Hà Nội, mà toà nhà đã bị ném bom năm 1972, nhưng Pierre Journoud đánh giá rằng nó giữ một vai trò không đáng kể trong tiến trình xây dựng hoà bình, dù cho các hiệp nghị đã được kỳ ở Paris.
Hà Nội là một thành phố tri thức, Pierre Bro-cheux nhấn mạnh, đặc biệt sôi động vào những năm 1940-1945, khi những luật gia trẻ tuổi vừa tốt nghiệp Đại học Đông Dương, viết cho báo Tri Tân và Thanh Nghị. Một thành phố bác học, Pierre Singaravélou bổ sung, và trước hết là EFEO với 3 chức năng: nghiên cứu, bảo tồn di sản và xây dựng các bảo tàng và thư viện. Cuối cùng là một trung tâm của nghệ thuật với Trường Mỹ thuật Đông Dương và những gì thừa kế được, mà Caroline Herbelin đã vạch lại quá trình trải qua cho đến ngày nay.
Việc người Pháp phá thành cũ Hà Nội - được Oliver Tessier giải thích hình ảnh, lấy lại những ý chủ đạo của cuộc triển lãm tổ chức ở Hà Nội vừa qua. Rồi đến lúc hình dung Hà Nội trong tương lai, Christian Pedelahore de Loddis nói cụ thể về các ảnh hưởng kiến trúc, trong khi Emmanuel Carise trình bày chi tiết tầm nhìn đô thị của một thành phố đang phát triển, lấn sang đất nông thôn xung quanh và phải đối diện với một sự tăng trưởng dân số, bất kể đến sự mong manh về kinh tế, đã được Jean – Raphael Chaponnière giải thích.
Văn học đã gợi lại cho chúng ta những kỷ niệm tốt đẹp bằng tham luận của Nguyễn Việt Hà, với nỗi u buồn riêng biệt của một chiều thu, đã cảm nhận thành phố mà mình sinh sống như thế nào. Rồi Đoàn Cầm Thi giải thích bối cảnh ra đời của Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm. Quả thật tác phẩm đó rất xúc động, đã được công chúng Việt Nam đón nhận rộng rãi, nhưng có khiến cho ta nghĩ rằng tác giả đã bị kiểm duyệt hay đã tự kiểm duyệt? Một số độc giả tham dự đã tranh luận về nhận định đó, viện cớ cuốn sách đã được xuất bản sau khi người viết qua đời, những chỗ khác nhau ghi nhận được giữa văn bản trên Internet với văn bản in thành sách, rất có thể cho ta đọc lại một cách chăm chú để thấy những nhát cắt của chiếc kéo kiểm duyệt.
Một cuộc họp bàn tròn giữa những nhân chứng, tất cả đều là người Pháp, đã biết Hà Nội từ 1960 đến 1975. Bác sĩ giải phẫu Jean-Michel Krivine, đặt trước bàn một quả bom “hình quả na”, giải thích cho chúng ta những tàn phá của bom bi, về thời đại gian khó và kho tàng sáng kiến mà bác sĩ Tôn Thất Tùng đã phát huy để giải quyết. Alain Wasmes kể lại chuyện một phóng viên của báo Nhân Đạo đã có những nguồn cung cấp tin khác nhau như thế nào, không thích hợp dưới chế độ của một đảng duy nhất. Những cựu đại sứ được mời đến kể lại những giai thoại trong nhiệm vụ của họ, đối với Philippe Richer là được đánh dấu bằng việc thống nhất đất nước năm 1975, và với Claude Blanchemaison thì vào lúc chính sách cấm vận được dỡ bỏ.
Cuối cùng, để kết thúc, những tư liệu của Viện Nghe nhìn Quốc gia và Trung tâm Điện ảnh Quân đội đã giới thiệu những thước phim của mình. Rất xúc động khi thấy chiếu lên hình ảnh một Hà Nội bằng phim đen trắng, nhộn nhịp xe kéo và tàu điện.Thành phố lặng lẽ của những phim đầu tiên, đã nhường chỗ cho cuộc phỏng vân khiến chúng ta kinh ngạc, khi nhìn thấy Hồ Chí Minh, điếu thuốc ngậm trên môi, pha lẫn sự nhạy bén và lịch sử, trả lời một nhà báo bằng tiếng Pháp. Bao giờ cũng điềm tĩnh, khi được hỏi nếu tướng de Gaulle có thể làm trọng tài trong cuộc xung đột này thì sao, ông đã đáp lại gần như bông đùa rằng đây không phải là hai đội bóng đấu với nhau. Rồi tướng Giáp, trong một cách nói rất trong sáng với tài hùng biện sắc sảo, đã đưa ra sự trình bày bậc thầy về việc Mỹ bị đặt vào tình trạng không thể ngăn cản nỗ lực thống nhất dân tộc của Việt Nam. Để kết thúc, phải nói rằng những câu chuyện chiến tranh, vang lên trong hội trường Austerlitz , chỉ cách lăng mộ của Napoléon có mấy bước, đã khiến cho ta nhớ lại rằng, Bonaparte đã từng đúng là hình mẫu của người chiến thắng ở Điện Biên Phủ.








