Hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp hội Việt Nam và một số kiến nghị sửa đổi Quyết định 22/2002/QĐ-TTg
Về mặt Nhà nước, Thông báo 115/TB ngày 20-11-1992 của Văn phòng Chính phủ, Chỉ thị 14/2000/CT-TTg ngày 01-8-2000 và Quyết định 22/2000/QĐ-TTg ngày 30-01-2002 của Thủ tướng Chính phủ là những văn bản đề cập đến hoạt động TV, PB &GĐXH của Liên hiệp hội Việt Nam.
Thời gian đầu, Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên tập trung vào việc đóng góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện quan trọng của Đảng, Quốc hội và Chính phủ. Riêng trong năm 1997, Liên hiệp hội Việt Nam tổ chức thẩm định và phản biện 9 trong số 11 quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội các vùng thời kì 1996-2010. Trong vòng 10 năm (1992-2002) đã có 15 dự án đầu tư nhận được ý kiến tư vấn và phản biện của Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên.
Một số kết quả triển khai Quyết định 22/2002/QĐ-TTg của Liên hiệp hội Việt Nam
Với Quyết định 22/2002/QĐ-TTg ngày 30-01-2002 của Thủ tướng Chính phủ về hoạt động TV, PB &GĐXH của Liên hiệp hội Việt Nam (sau đây gọi tắt là Quyết định 22), lần đầu tiên, Thủ tướng Chính phủ ban hành một văn bản pháp quy đặc thù về một trong những hoạt động chủ yếu của Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên, đáp ứng nguyện vọng và sự mong đợi đã từ lâu của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước nhà.
Quyết định 22 là sự cụ thể hoá điểm 2 trong Chỉ thị 14/2000/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Nó có ý nghĩa hết sức quan trọng và mở ra một bước phát triển mới, một khả năng thuận lợi mới cho hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên trong việc tập hợp đông đảo lực lượng cán bộ khoa học-công nghệ đa ngành và liên ngành góp phần nhằm giải quyết những vấn đề trọng tâm của đất nước, đồng thời cũng đề ra những yêu cầu cao đối với chất lượng và hiệu quả của hoạt động đó.
Theo tinh thần Quyết định 22, ngày 06-9-2003, Liên hiệp hội Việt Nam ban hành văn bản 733/LHH hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ TV, PB &GĐXH.
Ngay trong năm 2002, Liên hiệp hội Việt Nam tổ chức ba cuộc hội thảo khu vực tại Cần Thơ, Phú Yên và Hà Tĩnh nhằm quán triệt tinh thần Quyết định 22 và đề ra các biện pháp thực hiện văn bản quan trọng này. Trên cơ sở những kết quả của các cuộc hội thảo đó, một bản Chương trình hành động triển khai Quyết định 22/2002/QĐ-TTg về hoạt động TV, PB &GĐXHđã được xây dựng tại cuộc hội thảo toàn quốc diễn ra trong hai ngày 25 và 26/12/2002 tại Đà Nẵng và nhất trí quyết nghị thông qua tại Hội nghị lần thứ năm Hội đồng Trung ương Liên hiệp hội Việt Nam họp ngày 25/3/2003.
Ngày 01-4-2003, Bộ Tài chính ban hành Thông tư 27/2003/TT-BTC hướng dẫn cơ chế tài chính cho hoạt động TV, PB &GĐXH của Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Việt Nam .
Trong thời gian 2003-2007, Liên hiệp hội Việt Nam tổ chức liên tiếp các lớp tập huấn về Quyết định 22 tại các tỉnh, thành phố Hà Nội, Hà Tĩnh, Phú Thọ, Khánh Hoà, Bình Dương, Đồng Tháp.
Nhằm thực hiện Quyết định 22, Liên hiệp hội Việt Nam tổ chức nhiều hoạt động, đông viên đông đảo các nhà khoa học nghiên cứu và phát biểu ý kiến đóng góp vào dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng lần thứ X, các đề án trình các Hội nghị Trung ương, đặc biệt là Hội nghị Trung ương 7, các chương trình phát triển kinh tế-xã hội, khoa học-công nghệ, giáo dục-đào tạo, các dự án đầu tư trọng điểm, phức tạp, liên ngành.
Tiếp nối những kết quả đạt được từ những năm trước, tháng 5/2003 Liên hiệp hội Việt Nam tổ chức tư vấn thẩm định hồ sơ nghiên cứu khả thi (báo cáo cuối cùng) công trình thuỷ điện Sơn La. Cùng với các báo cáo ở năm giai đoạn trước, báo cáo tư vấn thẩm định lần này của các nhà khoa học thuộc Liên hiệp hội Việt Nam là sự đóng góp quan trọng và được đánh giá rất cao, giúp Chính phủ và Quốc hội thống nhất được phương án tối ưu cho công trình thuỷ điện Sơn La. Ngày 5-2-2004, Liên hiệp hội Việt Nam đã tổ chức long trọng Lễ đón nhận phần thưởng của Hội đồng thẩm định Nhà nước Dự án thuỷ điện Sơn La.
Khi dịch cúm gia cầm H5N1 lây lan, đầu tháng 2/2004, Liên hiệp hội Việt Nam kịp thời tập hợp ý kiến của các nhà khoa học, nhiều lần gửi văn bản đề xuất với Nhà nước các biện pháp khống chế dịch, đồng thời bảo vệ các giống gia cầm bản địa quý hiếm của Việt Nam.
Ngay sau khi Hoàng thành Thăng Long phát lộ, Liên hiệp hội Việt Nam và Hội khoa học Lịch sử Việt Nam đã kiến nghị với Nhà nước các biện pháp bảo tồn và tôn tạo di chỉ khảo cổ cực kì quan trọng và quý giá này của quốc gia. Liên hiệp hội Việt Namcũng đã đề xuất ý kiến về vị trí xây dựng Bảo tàng quân sự Việt Nam . Gần đây, trong bối cảnh chuẩn bị tiến tới kỉ niệm một nghìn năm Thăng Long-Đông Đô-Hà Nội, Liên hiệp hội Việt Nam tổ chức hội thảo khoa học trưng cầu ý kiến các nhà khoa học về quy hoạch phát triển Hà Nội hai bên bờ sông Hồng.
Nhằm góp phần khắc phục một số điểm yếu trong công tác giáo dục, liên tục trong bốn năm 2005-2008, Liên hiệp hội Việt Nam đã tổ chức đánh giá chương trình giảng dạy, sách giáo khoa và thiết bị dạy học trong nhà trường phổ thông các cấp. Các bản báo cáo đánh giá trình bày tại nhiều cuộc hội thảo, hội nghị đã được lãnh đạo và các cơ quan hữu quan của Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp nhận tích cực.
![]() |
| Ngay từ năm 2004, các nhà khoa học Liên hiệp hội Việt Nam đã đóng góp cho chương trình sách giáo khoa. |
Theo thống kê chưa đầy đủ, Quyết định 22 đã được cụ thể hoá thành các chỉ thị hoặc quyết định của Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Hải Dương, Thanh Hoá, Thừa Thiên Huế, Đăc Lăc, Đồng Nai, Cần Thơ. Liên hiệp hội các tỉnh Hải Dương, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Phú Yên cũng tổ chức các hội nghị, nhằm thảo luận, quán triệt và đề ra các biên pháp thực hiện Quyết định 22.
Với khả năng còn có hạn của mình, các liên hiệp hội địa phương cũng đã mạnh dạn triển khai hoạt động TV, PB &GĐXH. Trong khi Liên hiệp hội của Thủ đô Hà Nội và Thành phố hồ Chí Minh tranh thủ sự tham gia của các chuyên gia thuộc nhiều cơ quan trung ương thì Liên hiệp hội nhiều tỉnh biết khai thác tiềm năng của trí thức hướng về quê hương. Bên cạnh việc tích cực tham gia tổ chức biên soạn Bách khoa thư Hà Nội, Liên hiệp hội Hà Nội đã đóng góp ý kiến cho các chương trình phát triển kinh tế-xã hội của Thủ đô. Liên hiệp hội Thành phố Hồ Chí Minh đóng góp ý kiến cho dự án khả thi “Vệ sinh môi trường Thành phố Hồ Chí Minh – lưu vực Nhiêu Lộc-Thị Nghè” , tư vấn cho dự án di chuyển một phần cảng Sài Gòn ra khỏi nội thành và phản biện dự án khả thi xây dựng hai tuyến ưu tiên đường sắt đô thị. Liên hiệp hội Thanh Hoá phản biện đề án “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội miền núi Thanh Hoá đến năm 2020”. Liên hiệp hội Quảng Ngãi tư vấn cho Uỷ ban Nhân dân tỉnh phương án chuyển đổi sản xuất lúa từ 3 vụ sang 2 vụ mỗi năm. Các liên hiệp hội HảI Phòng, Nghệ An, Khánh Hoà, Cần Thơ cũng đóng góp nhiều ý kiến quý báu cho các dự án phát triển của địa phương.
Có thể còn kể ra rất nhiều ví dụ khác về hoạt động TV, PB &GĐXH của các hội thành viên. Với nhiệt tình hăng say , ý thức trách nhiệm, tinh thần khách quan khoa học và những kết quả đã đạt được, Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên từ trung ương đến địa phương ngày càng trở thành người cố vấn đáng tin cậy của lãnh đạo Đảng và chính quyền các cấp.
Những điều cần chỉnh sửa
Bên cạnh ý nghĩa to lớn và tác dụng tích cực là chủ yếu, quá trình hoạt động trong hơn sáu năm qua cũng bộc lộ một số hạn chế của Quyết định 22. Trong hoàn cảnh đó, nhiều hội thành viên của Liên hiệp hội Việt Nam, nhất là các hội khoa học xã hội ở trung ương và các liên hiệp hội tỉnh, thành phố còn gặp nhiều khó khăn trong việc tham gia hoạt động quan trọng này. Các phương tiện tài chính và vật chất-kĩ thuật được cung cấp cũng chưa tương xứng với mức độ huy động công sức và trí tuệ của các nhà khoa học. Những khó khăn, trở ngại đó đã hạn chế phần nào kết quả TV, PB &GĐXH của Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên đối với các dự án lớn, có tầm cỡ quốc gia.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tếmở ra những triển vọng mới cho sự phát triển tổ chức và tăng cường hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam. Việc tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 45 – CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII) cũng là dịp để Liên hiệp hội Việt Nam nhìn lại quá trình hoạt động trong hai nhiệm kỳ vừa qua, đề ra phương hướng phấn đấu cho thập niên sắp tới, tích cực chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
Trong tình hình đó, việc ban hành một văn bản mới của Chính phủ với một số điều chỉnh nhất định nhằm thay thế Quyết định 22 là cần thiết và cũng có điều kiện thuận lợi. Nổi bật lên là những vấn đề sau đây:
1.Cụm từ “ TV, PB &GĐXH” xuất hiện lần đầu tiên tại Điều lệ của Liên hiệp hội Việt Nam (khoá II) sau khi Chỉ thị 35 – CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá V) được ban hành và là một trong những nội dung chủ yếu của văn kiện quan trọng đó. Vừa qua đã có những sự hiểu lầm cụm từ này. Cách hiểu lầm rằng, về thực chất TV, PB &GĐXH đều là tư vấn, chỉ khác nhau ở khâu tác động. Cách hiểu lầm thứ hai cho rằng hoạt động TV, PB &GĐXH của Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên chỉ liên quan đến khía cạnh khoa học xã hộicủa các dự án! Theo cách hiểu lầm thứ ba thì từ xã hội chỉ gắn với khái niệm giám định. Văn bản mới có thể khắc phục những sự hiểu lầm này bằng cách trình bày rõ ràng, chính xác các khái niệm tư vấn, phản biện và giám định, giúp người đọc phân biệt được các khái niệm đó, đồng thời cũng thấy được mối quan hệ qua lại giữa chúng. Văn bản mới cũng cần khẳng định rằng TV, PB &GĐXH là cách viết gọn của tư vấn xã hội, phản biện xã hộivà giám định xã hội, được thực hiện từ phía xã hội, bởi những lực lượng xã hộivà mang tính chất xã hội.
2. Khác với Quyết định 22, văn bản mới cần đề ra những quy định cụ thể về các loại đề án, phải có sự TV, PB &GĐXHcủa Liên hiệp hội Việt Nam , các hội thành viên hoặc các tổ chức xã hội khác. Đó là:
- Các dự án luật; các dự án đầu tư đặc biệt quan trọng thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội;
- Các dự thảo nghị định; các chính sách, chiến lược, chương trình, quy hoạch và dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, chủ yếu là trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế, bảo vệ môi trường thuộc thẩm quyền quyết định của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ;
- Các dự án đầu tư nhóm A và các chiến lược, quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng thuộc thẩm quyền quyết định của Bộ trưởng, của Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các cơ quan trung ương khác;
- Các chính sách, chiến lược, chương trình, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Các dự án đầu tư quan trọng thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Đối với các đề án nằm trong loại này, thuộc thẩm quyền phê duyệt của mình hoặc trình cấp trên phê duyệt, các cơ quan có trách nhiệmđặt yêu cầu TV, PB &GĐXH cho Liên hiệp hội Việt Nam và/hoặc các hội thành viên. Đối với các đề án không thuộc loại này thì, tuỳ theo tính chất phức tạp, ưu tiên, trọng điểm hoặc đa ngành, các cơ quan có thểđặt yêu cầu TV, PB &GĐXH cho Liên hiệp hội Việt Nam và/hoặc các hội thành viên – Ngoài ra, Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên còn có thể tự đề xuấtnhiệm vụ TV, PB &GĐXH đối với các đề án quan tâm, tổ chức thực hiện và đề xuất kiến nghị gửi tới các cơ quan có liên quan và các cấp có thẩm quyền xem xét, kể cả đối với các đề án mà các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt hoặc trình cấp trên, nhưng không thực hiện trách nhiệm đặt yêu cầu TV, PB &GĐXH cho Liên hiệp hội Việt Nam và/hoặc các hội thành viên.
3. Trong thời gian qua, Thông tư 27/2003TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn cơ chế tài chính cho hoạt động TV, PB &GĐXH của Liên hiệp hội Việt Namđã bước đầu phát huy tác dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nhất là ở các địa phương, những quy định về nguồn kinh phí và cơ chế tài chính phục vụ cho hoạt động này chưa thật rõ ràng và do đó tính khả thi chưa cao. Sắp tới, về cơ bản vấn đề tài chính có thể được giải quyết bằng các biện pháp sau đây:
Đối với các đề án do các cơ quan đặt yêu cầuhoặc do Liên hiệp hội Việt Nam tự đề xuấtvà được chấp thuận. Bộ Tài chính (hoặc Sở Tài chính các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) thực hiện việc cấp kinh phí từ nguồn sự nghiệp khoa học và công nghệtrên cơ sở dự toán hàng năm của Liên hiệp hội Việt Nam và/hoặc các hội thành viên. Để tạo điều kiện cho Liên hiệp hội Việt Nam và/hoặc các hội thành viên thực hiện các nhiệm vụ TV, PB &GĐXH đột xuất, ngoài khả năng kế hoạch hoá, hàng năm các cơ quan tài chính tạm ứng một khoản kinh phí dành riêng cho hoạt động này. Riêng đối với các dự án đầu tư phát triển, cơ quan đặt yêu cầu TV, PB &GĐXH cho Liên hiệp hội Việt Nam và/hoặc các hội thành viên có trách nhiệm cung cấp tài chính để thực hiện nhiệm vụ trên cơ sở hợp đồngtheo các quy định hiện hành của pháp luật.
Cùng với sự năng động và nỗ lực chủ quan của Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên, những giải pháp nêu trên hứa hẹn sẽ tạo thêm điều kiện thuận lợi cho việc đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của hoạt động TV, PB &GĐXH trong thời gian mới.
* Ủy viên Đoàn Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam









