Hoàng Kế Viêm - Vị phò mã kiên trì chống Pháp của triều Nguyễn
“Tôi rất muốn làm quen với một người là đối thủ chính của chúng ta, nếu một khi xảy ra cuộc chiến với nước Đại Nam . Nhưng ông cương quyết, tôi nghĩ thế không muốn cho ai gặp… Tuy là văn quan, ông lại giữ một chức vụ quân sự, và nếu nài ép quá thì ông có thể trả lời là với tư cách (quân sự) thì ông ấy không có việc gì để thảo luận với ta. Nhưng thực tế, ông là người quan trọng nhất Bắc Kỳ…và là người đứng thứ ba của cả nước. Tôi không cần phải nói thêm rằng ông ấy rất thù địch chúng ta”(1).
Rồi hơn hai năm sau, vào ngày 30-11-1881, Bá tước P.Rheinart, Trú sứ Pháp đầu tiên ở kinh đô Huế lại báo cáo về Thống đốc Sài Gòn tình hình quân sự ở Bắc Kỳ như sau:
“Chỉ một số người rất nhỏ có ảnh hưởng là đủ khả năng khơi dậy một phần đất nước (Đại Nam ); tôi không biết có một ai khác ngoài Hoàng Kế Viêm…”(2).
Nhân vật của vương quốc Đại Nam Hoàng Kế Viêm mà hai nhà ngoại giao Pháp (vốn từ sĩ quan Hải quân chuyển sang) đề cập trên đây chính là một vị phò mã của triều Nguyễn. Lâu nay, người ta chỉ biết Hoàng Kế Viêm ở vai trò Tư lệnh quân đội triều đình vương quốc Đại Nam trên chiến trường Bắc Kỳ (Thống đốc quân vụ đại thần) từ năm 1870, với hai lần chiến thắng Cầu Giấy (21-12-1873 và 19-5-1883) lẫy lừng… Còn việc ông xuất thân từ văn quan (đậu Cử nhân năm 1843) và là phò mã của triều Nguyễn (từ 1844)… thì còn ít được biết tới.
Hoàng Kế Viêm chính quê ở làng Văn La, xưa thuộc huyện Phong Lộc, nay thuộc huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Văn La vốn nằm cạnh sông, cạnh núi, gần nơi hợp lưu của hai dòng Kiến Giang và Long Đại, nơi vùng đất có Mẫu Sơn, Hạc Hải, đặc biệt là có lũy Đồng Hới, còn gọi là lũy Thầy. Văn La là một trong “bát cảnh” (8 cảnh thuộc 8 làng) đi vào tiềm thức dân gian ở Quảng Bình “Sơn - Hà - Cảnh - Thổ - Văn - Võ - Cổ - Kim”; trong đó, “Văn” chính là làng Văn La của Hoàng Kế Viêm.
Hoàng Kế Viêm sinh ngày 29-8-1820 (tức 21 tháng 7 năm Canh Thìn, Minh Mạng năm thứ nhất). Thân phụ là Hoàng Kim Xán, làm quan ở triều Gia Long, nổi tiếng hiếu trung vẹn toàn; cho nên, sau khi mất, được thờ ở đền Hiền Lương tại kinh đô Huế. Trong ba người con trai của cụ Hoàng Kim Xán thì Hoàng Kế Viêm là con út. Năm 1833, tức Minh Mạng thứ 14, cụ Hoàng Kim Xán qua đời lúc đang tại chức ở Khánh Hòa, gia đình rời về quê, đưa thi hài cụ về an táng tại Văn La.
Điều đáng chú ý là, khi sinh ra (1820) cho đến năm 13 tuổi (1833), Hoàng Kế Viêm được phụ thân trực tiếp dạy bảo về chữ nghĩa thánh hiền cũng như về đạo lý làm người. Theo bia “Hoàng thị gia huấn” của nhà thờ họ Hoàng ở Văn La thì, trong phép gia giáo của cụ Hoàng Kim Xán, chữ Hiếu không chỉ giới hạn trong việc phụng dưỡng cha mẹ mà quan trọng hơn là thấm nhuần đạo lý làm người, bao gồm: cần khổ học tập, khiêm nhường với mọi người, thanh bạch khi hiển đạt, giữ gìn danh dự khi gặp cảnh khốn cùng; tất cả đều nhằm làm rạng danh gia đình dòng họ.
Rồi do nổi tiếng trong sự học, Hoàng Kế Viêm được tuyển vào Quốc Tử Giám và trong kỳ thi hương năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), Hoàng đậu cử nhân. Ngay năm sau đó (1844), vua Thiệu Trị gả con gái thứ 5 của vua Minh Mạng (1820-1840) là công chúa Hương La cho Hoàng Kế Viêm. Hoàng trở thành phò mã của triều Nguyễn trong điều kiện như thế.
Hai chữ “phò mã”, nguồn gốc là phụ mã. Khái niệm phụ mã vốn bắt nguồn từ khái niệm phụ mã đô úy, là tên gọi một chức quan võ đi theo hầu vua, chuyên trông coi xe ngựa cho vua khi vua ra ngoài. Đây vốn là một chức quan có từ thời nhà Hán rồi từ đời nhà Tấn trở về sau, ai lấy công chúa tức được phong chức quan ấy. Thể thức này được du nhập vào Việt Nam không biết từ thời nào: Người làm rể vua được gọi là phụ mã nhưng thường quen đọc là phò mã. Là người ngoài họ vua (quốc tính), khi trở thành phò mã, phải tuân theo một số thể lệ nhất định. Chẳng hạn: Một, đã là phò mã thì không được tham gia thi cử trong bất cứ tình huống nào. Nếu chưa từng đi thi, thì không được thi nữa; nếu đã thi rồi, dù đậu ở bậc thấp, cũng không được thi tiếp ở bậc cao nữa. Chẳng hạn như Hoàng Kế Viêm, đậu cử nhân (thi hương) năm 1843 rồi thì từ khi được tuyển làm phò mã (1845), không được thi tiếp ở kỳ thi hội, thi đình nữa. Hai, đã là phò mã thì không được bổ dụng làm quan, chỉ trừ ngoại lệ là gặp lúc quốc gia đại sự, đích thân nhà vua đang trị vì triệu về kinh trao việc nước. Ba, là phò mã, thường có phủ đệ riêng và thường là ở trong phủ đệ của công chúa.
Nhưng năm 1845, công chúa Hương La từ trần. Và có thể do đó, Hoàng Kế Viêm được bổ làm Quang lộc tự khanh, một chức quan văn và năm sau (1846) làm Lang trung bộ Lại. Năm 1847, vua Thiệu Trị (1840-1847) - em ruột công chúa Hương La - băng hà. Tới năm 1850, thân mẫu Hoàng Kế Viêm qua đời ở làng Văn La. Hoàng được về quê chịu tang mẹ 3 năm. Nhưng lại một điều khác xảy ra cho vị phò mã đặc biệt này: Vừa mới được 2 năm thì năm 1852, vua Tự Đức đã triệu Hoàng về triều và thăng ngay làm Án sát tỉnh Ninh Bình.
Tại sao một ông vua nổi tiếng là có hiếu với mẹ như Tự Đức lại không nỡ để cho phò mã Hoàng Kế Viêm thực hiện vẹn tròn đạo hiếu với mẹ như vậy?
Số là, tuy lên kế vị với niên hiệu Tự Đức - có nghĩa là “một sự thừa tự hợp đạo đức” - nhưng tính chính đáng (légitimité) của ngôi vua Tự Đức lại bị trong triều ngoài nội đặt thành vấn đề, kéo theo nhiều hệ quả lịch sử nghiêm trọng và riêng đối với bản thân nhà vua thì trước hết, điều đó đã tạo nên một mặc cảm nặng nề trong đời sống tinh thần và đời sống luân lý.
Vua Thiệu Trị băng hà ngày 4-11-1847, trị vì không đầy 7 năm. Bản di chúc người kế vị là sự kiện quan trọng đầu tiên của một triều đại. Thế mà Thực lục của nhà Nguyễn chỉ ghi lời truyền miệng của vua Thiệu Trị ngày 25-10-1846, tức 10 ngày trước lúc băng hà, cho 4 đại thần là Trương Đăng Quế, Lâm Duy Hiệp, Võ Văn Giai và Nguyễn Tri Phương, báo cho họ biết ý định của nhà vua về việc chỉ định con trai thứ 2 là Hồng Nhậm kế vị, thay cho con trưởng là Hồng Bảo(3). Lời di chúc truyền miệng ấy được giữ bí mật, do đó “người ngoài cung đình không hay biết” (ngoài đình bất tri dã)(4). Tình thế đó đã nhanh chóng dẫn tới sự tranh giành ngôi vua, kéo theo sự phân hóa triều đình Thiệu Trị thành 4 nhóm: 1, Nhóm ủng hộ một trong những người con của hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh, vốn là con trai cả của vua Gia Long và là anh cả của vua Minh Mạng; 2, Nhóm thứ hai tôn phù em trai của vua Minh Mạng thường gọi là ông hoàng Kiến An; 3, Phe thứ ba phò tá ông hoàng Hồng Bảo, con trai trưởng của vua Thiệu Trị vốn đã được nhà vua giao việc triều chính khi nhà vua ra Hà Nội nhận thụ phong của triều đình nhà Thanh năm 1842; 4, Còn phe thứ tư thì đưa ra một di chúc mà trong báo cáo gửi Bộ trưởng ngoại giao Pháp ở Paris ngày 15-5-1848, sứ thần Pháp ở Trung Hoa đã khẳng định rằng không biết di chúc thật hay di chúc giả, tuy rằng theo đó con trai thứ của Thiệu Trị chính thức được ghi nhận là người kế vị. Sau hơn một tháng giằng co giữa các phe nhóm, cuối cùng, nhóm thứ tư bao gồm các đại thần đứng đầu là Trương Đăng Quế đã thành công trong việc gạt bỏ con trưởng vua Thiệu Trị - Hồng Bảo - ra khỏi vị trí người kế vị để tổ chức lễ đăng quang cho người con thứ là Hồng Nhậm vào ngày 26-11-1848, lấy niên hiệu là Tự Đức. Nhưng Hồng Bảo đã phản ứng dữ dội và tìm cách lật đổ ngôi vua Tự Đức để giành lại ngai vàng bất chấp những gì có thể xảy ra cho đất nước và cho cả triều Nguyễn. Hồng Bảo đã tìm cách liên lạc với các Thừa sai và một số giáo dân… để nổi dậy. Nhưng rút cục, việc không thành. Năm 1854, Hồng Bảo được giảm án xử lăng trì xuống án tù chung thân và đổi theo họ mẹ (họ Định). Rồi từ năm 1866, sau thất bại của cuộc khởi nghĩa do Đoàn Trưng, con rể Tùng Thiện vương Miên Thẩm cầm đầu nhằm đưa con trưởng Hồng Bảo là Định Đạo lên ngôi thì cả gia đình Hồng Bảo đều bị giết. Dù Tự Đức tìm mọi cách và mọi trường hợp có thể để thanh minh, kể cả việc dùng chữ “Khiêm” đặt tên cho lăng mình “Khiêm lăng”, nhưng điều không thể tránh được là Tự Đức vẫn bị coi là kẻ giết anh cùng cả gia đình. Trước mắt thần dân của vương quốc Đại Nam, điều đó sẽ làm cho triều đại của vua hay chữ nhất triều Nguyễn này giảm hẳn tính chính thống và uy thế của một vị hoàng đế, ngay trong điều kiện phải tập hợp mọi lực lượng để chống thực dân Pháp đang tìm cách mở rộng xâm lược. Điều tai hại trực tiếp là, mưu kế xác lập sự thông đồng chính trị giữa Hồng Bảo và một bộ phận người công giáo, nhất là các giáo sĩ đã tạo nên một bước mới trong thái độ của vua Tự Đức và triều đình Tự Đức từ đây về sau đối với người công giáo. Quan hệ với người công giáo vốn lúc này đã thuộc Hội Thừa sai của Paris không còn đơn thuần là vấn đề đức tin tôn giáo như trước nữa mà đã chính thức chuyển hẳn sang vấn đề chính trị, tức vấn đề giành và giữ chính quyền, cũng tức là vấn đề còn hay mất của triều đình Tự Đức và của cả vương quốc Đại Nam nữa. Cho nên không có gì lạ, sau khi âm mưu và kế hoạch của Hồng Bảo cùng đồng bọn bị bại lộ và thất bại, vua Tự Đức liền thay đổi thái độ với người công giáo. Từ có phần hòa dịu như thời Thiệu Trị chuyển sang đàn áp một cách khốc liệt và nếu so với sự việc tương tự ở các nước khác cũng thuộc châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan… thì tình hình ở nước Đại Nam lại càng tệ hại. Rút cục, Hội Thừa sai ở Paris đã công khai đề xuất vấn đề “tự do hành đạo Thiên chúa” ở vương quốc Đại Nam rồi vận động Đệ nhị đế chế của Louis Napoléon Bonaparte can thiệp vũ trang. Và thế là, Hoàng đế Napoléon III ra lệnh cho Bộ trưởng Ngoại giao của Đế chế là Walewski lập một đạo quân viễn chinh sang Việt Nam . Hội đồng các bộ trưởng của Đệ nhị đế chế họp ngày 16-7-1857 đã quyết định nhất trí can thiệp. Một hạm đội Pháp do Đô đốc Rigault de Genouilly chỉ huy đang trên đường sang Viễn Đông (can thiệp vào Trung Quốc) được lệnh thực thi điều đó với mục đích ban đầu là đòi hỏi chấm dứt bức hại đối với đạo Thiên chúa. Rõ ràng cuộc xâm lược đã gần kề.
Nhưng tình thế cụ thể mà vua Tự Đức phải đối mặt sau khi lên ngôi không phải chỉ như vừa giải trình trên. Thiên tai (hạn hán, lụt lội, thổ tả, dịch hạch…) dồn dập ập tới. Mất mùa, đói kém, vỡ đê xảy ra hầu như liên miên. Thêm vào đó, thổ phỉ đủ các loại với đủ thứ Cờ: Cờ đen, Cờ trắng, Cờ vàng, tàn dư của Thái Bình thiên quốc tràn vào Bắc Kỳ, cơ hồ làm chủ các tỉnh biên giới phía Bắc. Nội bộ hoàng tộc lại không quy hướng về một đế vị thiên tử duy nhất là con thứ hai của vua Thiệu Trị được xác lập bằng một cuộc “đảo chính cung đình”(5), mà lại phân tán theo con cháu trực hệ của ba vị vua khác đầu triều Nguyễn. Rồi mấy vị phụ chính đại thần do vua Thiệu Trị lập nên để giúp vua mới lại cùng nhau từ chức năm 1850.
Trước nguy cơ đe dọa tứ phía như vừa giải trình trên đây, ông vua có tiếng thông minh tính chuyện phải tìm những người phò tá đủ tin cậy, sao cho hoàng quyền đứng vững được. Sau khi xuống chiếu cầu hiền, nhà vua đã nghĩ tới vị phò mã của vua cha Thiệu Trị, vốn dòng dõi thi lễ “hiếu trung vẹn toàn” và đã kinh qua Quốc Tử Giám. Đối với Hoàng Kế Viêm, vua Tự Đức vừa có quan hệ vua tôi, vừa có quan hệ thân thuộc [vua Tự Đức là cháu nội vua Minh Mạng (1820-1840), trong khi Hoàng Kế Viêm lấy con gái vua Minh Mạng; vua Tự Đức gọi Hoàng là bác dượng lấy cô ruột]. Trong quan hệ vua tôi, nhà vua tự xưng là “trẫm” và có khi trách mắng nặng nề, nhưng trong quan hệ thân thuộc, nhà vua thường chỉ phàn nàn có tính chất tâm sự, thậm chí nhún nhường tự xưng là “cô gia”(6).
Năm 1852, bất chấp lệ cư tang 3 năm, đích thân vua Tự Đức triệu Hoàng Kế Viêm về kinh và giao ngay chức Án sát Ninh Bình; rồi năm 1854, cải bổ Bố chánh tỉnh Thanh Hóa. Năm 1859, khi quân Pháp chiếm thành Gia Định thì Hoàng được nhà vua ủy cho ổn định tình hình tỉnh Hưng Yên, nơi tập trung những khó khăn thời bấy giờ ở Bắc Kỳ và cũng chính là nơi đã xảy ra khởi nghĩa Cao Bá Quát (1808-1855). Hoàng đã tìm cách giải quyết nạn phiêu tán trầm trọng vì lụt lội, mất mùa, đói kém ở Hưng Yên bằng cách không huy động ở sức dân theo kiểu nghĩa vụ công ích mà theo biện pháp triều đình đứng ra trả tiền công đắp đê bằng nửa tiền gạo cho dân. Tới đầu năm 1863, ngoài thì Bắc Kỳ rối loạn, trong thì Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ buộc triều đình Tự Đức phải ký điều ước Nhâm Tuất (1862), vua Tự Đức cử Hoàng Kế Viêm làm Tổng đốc Nghệ An để tìm cách trấn an lòng người.
Việc đầu tiên của Hoàng khi tới Nghệ An là xin triều đình cho đào kênh Sắt (thường gọi là Thiết cảng) nối liền đường thủy giữa Thanh Hóa và Nghệ An, đồng thời có tác dụng lớn đối với thủy lợi của nông nghiệp. Thiết cảng là con kênh bắt đầu có từ thời Cao Biền nhà Đường (618-905) là Tiết độ sứ ở nước ta nhưng chưa hoàn thành. Đến thế kỷ XV, Hồ Quý Ly (1337-1407) tiếp tục cho đào nhưng đến đoạn từ xã La Hoàng đến xã Thạch Dương thì phải dừng lại vì đá ngầm, mạch sắt. Điều đáng chú ý là Hoàng Kế Viêm đã tìm sự giúp đỡ của Nguyễn Trường Tộ. Hai nhân vật lịch sử này vốn hiểu nhau xuất phát từ lòng nhiệt thành vì việc nước. Là một nhà khoa học hiếm có trong thế kỷ XIX của nước ta, Nguyễn Trường Tộ đã xác định rõ được những nơi dưới lòng đất có đá ngầm và mạch sắt, cần phải tránh. Chính nhờ thế, việc đào kênh Thiết cảng của Hoàng Kế Viêm đã thành công, để lại ảnh hưởng cho đến nay.
Từ năm 1870, người Pháp tìm cách đưa tiếng súng xâm lược vào Bắc Kỳ nhằm trước hết là độc chiếm sông Hồng trước Anh và Đức để tự do buôn bán với Vân Nam và cả vùng Hoa Nam của nhà Thanh. Vua Tự Đức triệu Hoàng Kế Viêm về triều đình Huế. Tới nơi, theo Đại Nam thực lục (quyển 32), Hoàng dâng sớ can gián nhà vua một cách nặng nề: “Mệnh trời không thường, có đức mới giữ được ngôi… Nếu cứ bốn năm ngày một lần đi chơi, vài ba hôm một lần xông pha mưa sương, gió sóng thì, xa, nên nghĩ đến việc Lê Văn Thịnh, gần, nên nghĩ đến vụ biến Đoàn Trưng. Huống chi, Nam Kỳ như thế, Bắc Kỳ như thế, thiên tai mất mùa như thế…vui săn bắn chim chóc mà khuây khỏa được chăng?”.
Nhận được sớ, với ý tứ nặng nề như vậy, nhưng Hoàng không bị coi là “phạm thượng”. Vua Tự Đức chỉ phàn nàn người bác dượng lấy cô ruột (Trưởng công chúa Hương La) ấy là “không hiểu cảnh ngộ” của mình, nhưng rồi nhà vua đã cử Hoàng Kế Viêm ra Bắc Kỳ, nơi đám giặc Cờ hoành hành và cũng là nơi đang trở thành mục tiêu tiến quân của đám tướng tá Pháp ở Sài Gòn. Lần này thì vua Tự Đức chuyển hẳn phò mã Hoàng Kế Viêm sang lĩnh vực quân sự, ủy nhiệm cho Hoàng trước hết ổn định tình thế ngày càng rắc rối của 8 tỉnh biên giới Thanh - Đại Nam đến Bắc Ninh (bao gồm Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh). Với chức vụ Lạng - Bằng - Ninh - Thái Thống đốc quân vụ đại thần, Hoàng có nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy quân thứ Tam Tuyên và cùng với Tôn Thất Thuyết lo liệu mọi sự ở Bắc Kỳ. Rồi từ năm 1877, sau khi Tôn Thất Thuyết về nghỉ ở quê nhà Thanh Hóa thì Hoàng Kế Viêm, với sự trợ lực của Trương Quang Đản chỉ huy quân thứ Bắc Ninh, đảm nhiệm Tư lệnh quân đội triều đình trên chiến trường Bắc Kỳ. Hoàng đã chiêu dụ Lưu Vĩnh Phúc và nắm lấy quân Cờ đen của viên tướng Thái Bình Thiên quốc này để dẹp hai thứ giặc Cờ, Cờ vàng và Cờ trắng, khôi phục lại vùng lãnh thổ bị chúng chiếm đóng, tàn phá.
Khi vua Tự Đức ủy cho Hoàng Kế Viêm trách nhiệm ổn định biên giới và chỉ huy quân đội triều đình ở Bắc Kỳ thì cũng chính là lúc quân Pháp đang tìm cớ đưa tiếng súng xâm lược từ Nam Kỳ ra Bắc Kỳ.
Sau khi đi cùng đoàn thám hiểm sông MéKong Doudart de Lagrée để tìm đường xâm nhập vào vùng Vân Nam nhưng không có kết quả, J.Dupuis, một doanh nhân buôn bán vũ khí của Pháp, đã tìm cách đạt mục đích xâm nhập đó bằng con đường sông Hồng ở Bắc Kỳ. Đầu năm 1872, hắn xin Chính phủ Pháp chấp thuận cho hắn được mở đường sông Hồng cho việc kinh doanh. Bộ trưởng Hải quân Pháp Porthuau của Đệ tam cộng hòa giới thiệu Dupuis với Thống đốc Sài Gòn Dupré để được giúp đỡ. Từ đó, Dupré hứa với Dupuis là sẽ gửi một tàu chiến tới Vịnh Bắc Kỳ giúp hắn dễ dàng đi vào sông Hồng, với điều kiện hắn phải treo cờ hiệu Trung Hoa theo khuyến cáo của Bộ trưởng Hải quân. Mãi cho đến tháng 10/1873, căng thẳng giữa Dupuis và Chính quyền Đại Nam ở Hà Nội vẫn ngày một gia tăng. Triều đình Huế một mực yêu cầu Thống đốc Sài Gòn trục xuất Dupuis ra khỏi Bắc Kỳ. Dupré liền coi yêu cầu đó của triều đình Huế là cơ hội có lý do chính đáng để đột nhập vào Bắc Kỳ. Dupré sai viên quan ba F.Garnier tiến ra Hà Nội với 180 quân và trong thư gửi F.Garnier ngày 10/10/1873, Dupré chỉ thị: “Ông sẽ đi Kẻ Chợ (Hà Nội) theo yêu cầu của Chính phủ Đại Nam; Chính phủ này xin tôi giúp đỡ để tống khứ J.Dupuis khỏi thành phố này. Ông hãy cố ép cho Dupuis ra đi nhanh chóng vì sự có mặt của hắn tại Hà Nội là trái với Hiệp ước… Nhưng sứ mạng của ông không phải ngừng tại đó. Sự bất lực của Chính phủ An Nam đã biểu lộ như thế, đồng thời việc giao thông dễ dàng với Vân Nam cũng đã rõ… Ích lợi nhất là mở cửa sông tạm thời, càng nhanh càng tốt, cho tàu thuyền An Nam, Pháp và Hoa, kể từ biển tới biên thùy Vân Nam, với một mức thuế thương chính nhẹ, thu tại Hà Nội khi đi lên, tại một đồn biên giới khi đi xuống. Biện pháp này không nên để trì hoãn nữa”(7).
Tới nơi, F.Garnier hội quân với lực lượng vũ trang do F.Garnier chiêu mộ được và ngày 20/11/1873, công phá thành Hà Nội. Tổng đốc Nguyễn Tri Phương cùng con là phò mã Nguyễn Tri Lâm đích thân lên mặt thành chống giữ. Nguyễn Tri Phương bị thương nặng, bị bắt, bèn tuyệt thực và hy sinh. Nguyễn Tri Lâm tử trận. Hai tuần lễ sau khi chiếm thành Hà Nội, F.Garnier và binh đội của hắn chiếm luôn các tỉnh thành Hưng Yên, Hải Dương, Ninh Bình và Nam Định.
Việc quân Pháp mở rộng chiến tranh xâm lược ra Bắc Kỳ đã tạo nên một phản ứng mãnh liệt trong nhân dân vương quốc Đại Nam . Tầng lớp sĩ phu văn thân phân hóa. Trong khi một bộ phận chấp nhận đường lối nghị hòa của triều đình thì có một bộ phận khác, không chấp nhận hành lệnh bãi binh ban ra từ kinh đô Huế.
Chính trong tình thế đó, Hoàng Kế Viêm được coi là nhân vật số một trên chiến trường Bắc Kỳ, kiên trì chủ chiến. Dù thành Hà Nội đã mất và triều đình đã phái Trần Đình Túc ra Bắc Kỳ thương lượng nhưng Thống đốc quân vụ đại thần kiêm Tư lệnh quân thứ Sơn Tây Hoàng Kế Viêm và Tư lệnh quân thứ Bắc Ninh là Trương Quang Đản vẫn đưa quân về bao vây Hà Nội. Ngày 21/12/1873, Hoàng Kế Viêm lệnh cho Lưu Vĩnh Phúc và quân thứ Sơn Tây bố trí trận địa ở Cầu Giấy. Nơi đây, cuộc chiến diễn ra ác liệt và F.Garnier đã tử trận. Thừa thắng, quân Hoàng Kế Viêm đánh vào Nam Định, Hải Dương, Ninh Bình. Quân Pháp bị bao vây trong các thành lũy chiếm được. Lập tức, tình thế chiến trường Bắc Kỳ bị đảo ngược: sĩ quan và binh lính của binh đội Garnier chỉ còn chờ để rút khỏi Bắc Kỳ theo lệnh của Bộ trưởng Hải quân Porthuau (người đã giới thiệu J.Dupuis với Dupré để đề nghị Dupré giúp Dupuis tiến vào sông Hồng).
Ngày 10-12-1873, Thống đốc Sài Gòn Dupré phái Thanh tra bản xứ sự vụ Philastre ra Huế. Trong khi đó, Huế tự coi là đã bị Dupré đánh lừa, cũng phái Tả tham tri bộ lễ Nguyễn Văn Tường đi cùng với Philastre ra Hà Nội. Hai bên đi đến hai bản thỏa hiệp, ký ngày 5/1/1874 và ngày 6/2/1874, trao trả cho triều đình Huế các tỉnh thành: Ninh Bình, NamĐịnh và Hà Nội. Tiếp đó, hai bên còn đi đến một điều ước mới, thay thế cho Điều ước Nhâm Tuất (1862), ký kết ngày 15/3/1874 và được bổ sung bằng một Hiệp ước Thương mại ký ngày 31/8/1874. Kết quả của các ký kết ấy là: 1, Từ ngày 15/3/1874, tất cả sáu tỉnh Nam Kỳ bị tách khỏi vương quốc Đại Nam để trở thành thuộc địa chính của Pháp; 2, Vương quốc Đại Nam không có quyền thay đổi tình trạng ngoại giao hiện hữu, nghĩa là tự trói buộc mình trong tình trạng cô lập về đối ngoại; 3, Một tòa khâm sứ Pháp được thiết lập tại kinh đô Huế, và từ năm 1875, một lãnh sự Pháp sẽ được đặt tại Hà Nội. Tóm lại là, lục tỉnh Nam Kỳ trở thành thuộc địa trong khi đó phần còn lại của vương quốc Đại Nam trở thành đất bảo hộ của Pháp, tuy rằng điều ước 1874 và các hiệp ước bổ sung không ghi chính thức hai chữ “bảo hộ”.
Bước vào những năm bảy mươi của thế kỷ XIX, Đệ nhị Đế chế sụp đổ và nước Pháp tiến hành sang Đệ tam cộng hòa. Giới lãnh đạo chính trị Pháp có nhiều liên hệ gắn bó với ngân hàng và công nghiệp, chủ trương rằng chinh phục thuộc địa là một vấn đề sinh tử của nước Pháp, cho phép nước Pháp tham gia vào việc phân chia thế giới và “Bắc Kỳ, đó là tương lai đích thực của nước Pháp (Le Tonkin, voilà l'avenir véritable de la France)” (Gambetta)(8). Tới đầu năm 1872, Chính phủ Pháp cho phép Thống đốc Nam Kỳ Myre de Vilers phái một đội quân ra Bắc Kỳ để che chở các thương gia Pháp. Tiếp đó, tháng 3/1882, một mặt Le Myre de Vilers cử đại tá H.Rivière ra Hà Nội với một binh đội 233 quân, trang bị đầy đủ và mặt khác, viên Thống đốc dân sự đầu tiên của Pháp ở thuộc địa Nam Kỳ này lại thông báo cho triều đình Huế biết rằng đó chỉ là một biện pháp dự phòng với mục đích bảo vệ an ninh cho Pháp kiều tại Bắc Kỳ.
Trong tình thế đó, Hoàng Kế Viêm lập tức phối hợp với Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu cùng ký vào một bản sớ xin vua Tự Đức cho phép đem quân triều đình thuộc quân sứ Sơn Tây ra chống cự. Nhưng nhà vua phê phán Hoàng Diệu là “giữ địch, phòng địch không phải lúc”, còn đối với Hoàng Kế Viêm thì nhà vua quở trách là “làm rối rít tình thế” và ra lệnh “nên rút đi thì hơn”. Ngày 25/4/1882, H.Riviere gửi tối hậu thư yêu cầu Hoàng Diệu giải binh. Hoàng Diệu khước từ. Vào lúc 8 giờ 15 phút hôm đó, quân Pháp tấn công thành Hà Nội và tới 10 giờ 45 phút, Hà Nội thất thủ. Tổng đốc Hà Nội tuẫn nghĩa với thành.
Nhưng vấn đề là ở chỗ: chiếm thành nhưng có giữ được thành không? Chính Giám mục Puginier đã viết thư khuyên Rivière ngay sau khi Rivière chiếm thành như sau: “Đối với tôi, thì hình như đặc biệt tại Bắc Kỳ, việc tiến lên phía trước dễ dàng hơn việc bảo vệ một vị trí đã chiếm đóng”(9). Mặt khác, Chính phủ Pháp đang vướng vào vấn đề Ai Cập (5/1882) và do đó phải trì hoãn việc mở rộng chiếm đóng Bắc Kỳ của H.Rivière. Trong khi phải chờ đợi lệnh của Thống đốc Nam Kỳ và Chính phủ Pháp, H.Rviere đã ra lệnh tước bỏ mọi thứ vũ khí phòng thủ rồi trả lại thành Hà Nội cho các quan của triều đình Huế, chỉ để lại một binh đội tượng trưng chiếm đóng ở điện Kính Thiên(10).
Nhưng trong khi đó, vua Tự Đức vẫn nghĩ là có thể thương lượng Pháp rút khỏi Bắc Kỳ như 10 năm trước (1873) nên ra lệnh cho Hoàng Kế Viêm lui quân về Mỹ Đức và giải tán các “đoàn dũng” do sĩ phu Bắc Kỳ tự động lập ra để phối hợp chống Pháp. Hoàng Kế Viêm dâng sớ lên vua Tự Đức giải trình rõ rằng Pháp đang thôn tính cả nước và với tư thế trách nhiệm Thống đốc quân vụ đại thần, Hoàng không chịu rút quân, Hoàng nói thẳng thắn: “Nếu cứ sa vào cái thuận của họ..., nếu tuân theo Dụ rút hết đoàn dũng về Thái Nguyên, còn quân lính của thần thì rút về Thục Luyện, thế thì khi lâm sự khó mà ứng phó được”. Nhận được sớ, vua Tự Đức chất vấn Hoàng Kế Viêm: “Có phải ngươi tự cho là tướng ngoài cõi không cần tuân lệnh vua gửi tới phải không?”và buộc tội Hoàng là đã “trái mệnh vua thực sự, không thể chối cãi được”. Trách mắng Hoàng Kế Viêm nặng nề, đó là thực thi trách nhiệm tối cao gắn liền với quyền uy bất khả xâm phạm của vị hoàng đế. Nhưng chính trong khi đó, nhà vua vẫn không quên quan hệ Hoàng Kế Viêm với vương triều Nguyễn (đã trình bày trên kia). Và chính từ quan hệ đó, vua Tự Đức đã có điều kiện tin cậy hẳn và tâm sự thực với vị phò mã mà chính nhà vua đích thân ủy cho trách nhiệm Tư lệnh quân đội trên chiến trường Bắc Kỳ như sau: “Hôm nay xin đánh, mai lại xin đánh, nếu đánh mà không thắng, mẹ con nhà ta biết lấy đất nào mà nương tựa đây? - Kim nhật thỉnh chiến, lại nhật thỉnh chiến, chiến nhi bất thắng, cô gia mẫu tử tri vô hà địa?”.
Có thể chú ý rằng, trong tâm sự với Hoàng Kế Viêm, vua Tự Đức không xưng “trẫm” mà dùng cách nói nhún nhường của vương công thuở xưa, tự xưng là “cô gia” và gọi quan hệ giữa nhà vua với mẹ là “cô gia mẫu tử”. Qua tâm sự của vua Tự Đức, ngày nay chúng ta có thể nhận ra được ý nghĩa đích thực chi phối hành vi nhà vua đối với tình thế hiểm nghèo của nước Đại Nam (trừ Nam Kỳ) lúc bấy giờ. Đã đành là vua Tự Đức hoàn toàn không phải và không thể là vua Minh Trị (Meiji) của Nhật Bản. Nhưng những trải nghiệm đau đớn của nhà vua cũng như những tổn thất quá lớn của vương triều và vương quốc của nhà vua trong suốt ¼ thế kỷ (1858 - 1882) vừa qua cũng đã tạo điều kiện cho nhà vua - một ông vua thông minh và có học vấn của triều Nguyễn - nhận ra được rằng, sự so sánh hai bên giữa Pháp và vương quốc Đại Nam trong “đại thế thiên hạ” (chữ của Nguyễn Trường Tộ) bấy giờ, phần thắng không còn nghiêng về quốc gia Đại Nam của ông nữa, ngoại trừ trường hợp thay đổi cả nước Đại Nam đi. Điều này tương đương với việc thay đổi cả một xã hội luân thường vốn đã định hình và cố định lại từ xa xưa, đặc biệt là từ thế kỷ XV, thành một hiện thực thép được mệnh danh là “thiên kinh địa nghĩa”, “cùng tồn tại với trời đất, không thể thay đổi được”...
Chú thích:
(1) Lưu trữ AOM-Aix, Amiraux 13011, Dẫn theo Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa (1847-1885) (L'Empire Vietnamien Face à la Franne et à la Chine, 1847 - 1858), Bản dịch tiếng Việt do Hội Sử học Việt Nam xuất bản, Hà Nội, 1992, tr 299.
(2) Lưu trữ AOM-Aix, Amiraux 12940, Dẫn theo Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa (1847-1885) (L'Empire Vietnamien Face à la Franne et à la Chine, 1847-1858), Bản dịch tiếng Việt do Hội Sử học Việt Nam xuất bản, Hà Nội, 1992, tr 119.
(3) Đại Nam thực lục chính biên, tập III, quyển 72, tờ 13a.
(4) Đại Nam thực lục chính biên, tập III, quyển 72, tờ 13b.
(5) Cuộc “Đảo chính cung đình” này do Nhà Sử học Nhật bản Yoshiharu Tsuboi phát hiện và chứng minh một cách thuyết phục. Xin tham khảo “Yoshiharu Tsuboi”, Sđd, tr 170-179.
(6) (7) Thư Đô đốc Dupré gửi F.Garnier ngày 10-10-1872 do Georges Taboulet trích dẫn trong “La geste Francaise en Indochine, Paris”, 1955-1956, tr 706.
(8) Nguyễn Thế Anh, Việt Nam thời Pháp đô hộ, NXB Văn học, Hà Nội, 2007, tr 84-86.
(9) Louvet Louis-Eugene, Vie de Mgr Puginier, Hanoi , 1894, trích dẫn theo “Yoshiharu Tsuboi”, Sđd, tr 82.
(10) Tham khảo “Yoshiharu Tsuboi”, Sđd, tr 83-83.