Hồ Chí Minh - rạng ngời cốt cách vĩ nhân
1. Người là muôn vàn tình thương yêu
Trải qua quá trình 10 năm tìm tòi, khảo nghiệm, năm 1920 khi bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ở đây con đường giải phóng dân tộc, tìm thấy cái cẩm nang để giải phóng triệt để con người. Đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Bởi theo Người, tình yêu thương con người không thể chung chung, trừu tượng, mà thiết thực, cụ thể, trước hết dành cho người mất nước, người cùng khổ.
Chính vì vậy, Người đã nguyện dành cả cuộc đời mình để lo giải phóng cho dân tộc, đấu tranh cho con người thoát khỏi áp bức, bất công: "Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó".
Công cuộc giành độc lập, thống nhất Tổ quốc không thể tách rời với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Hồ Chí Minh tâm niệm: "Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". Ngay từ ngày đầu Cách mạng Tháng Tám thành công, tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Người đã nêu rõ mục tiêu của Nhà nước là: Làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành. Để làm được điều đó, Người đã đề ra nhiệm vụ cấp bách là diệt giặc đói và giặc dốt. Thương nhân dân đời sống khó khăn, Người nhắc nhở nhiệm vụ thường xuyên là xóa đói nghèo, làm cho kinh tế phát triển; người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu và người khá giàu thì giàu thêm. Kinh tế có phát triển, đời sống đồng bào có ấm no thì đất nước mới cường thịnh.
Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết: "Bác ơi, tim Bác mênh mông thế. Ôm cả non sông, mọi kiếp người". Trái tim, khối óc của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nghĩ về việc nước, về phong trào cách mạng ở năm châu bốn bể mà còn hằng lo cả đến bếp ăn của bộ đội, nhà tắm cho nông dân, nơi an dưỡng của người già, trại trẻ cho các cháu nhỏ...
Biết bao câu chuyện thường ngày đã nói lên tình thương yêu con người, sự quan tâm rất cặn kẽ, tỉ mỉ của Người đối với đồng bào, đồng chí và chiến sĩ. Làm phụ bếp bên Anh, khi rửa bát đĩa, Bác để riêng những thức ăn thừa, gói vào một gói, khi về mang ra cho những người nghèo khổ ăn xin ngoài đường. Dự tiệc chiêu đãi ở Pari, ra về Bác dành quả táo cho em nhỏ.
Giữa cánh đồng khô nóng Ấn Độ, những giọt nước mắt cảm thông của Người đã rơi trên vai ông lão nông dân áo quần rách nát. Mùa hè đến, mồ hôi thấm áo, Người nghĩ đến những chiến sĩ phòng không trên trận địa nóng bỏng. Đi công tác ở nước ngoài được biết có loại cây lá xanh quanh năm không rụng, Người nghĩ tới chị lao công đêm đêm vất vả quét lá nên tìm cách đưa loại cây ấy về nước.
Đưa anh hùng Trần Thị Lý đi thăm vườn Phủ Chủ tịch, Bác không đưa chị đi trên những con đường sỏi vì Bác biết chân chị dẫm trên sỏi thì ảnh hưởng vết thương trên đầu. Vào các dịp lễ tết, điều đầu tiên Bác nghĩ tới là đi thăm các trường con em miền Nam . Bác bảo: "Các cháu xa nhà, xa quê. Mong người thân lắm. Để Bác đến thăm cho các cháu đỡ buồn". Vậy là Bác đi, khi Vĩnh Phú, lúc Hải Phòng...
Trái tim Bác là vậy, trải đều tình thương yêu cho đồng bào, đồng chí, già trẻ, gái trai ở cả hai miền Nam - Bắc nước ta và cả đến kiều bào ngoài nước. Bởi vì Bác quan niệm rằng: Yêu thương con người là phải tôn trọng, quý trọng con người. Bác tôn trọng từ các nhà khoa học, các bậc hiền tài cho tới những người lao công quét rác. Đối với Bác, từ Chủ tịch nước tới người lao động bình thường, nếu hoàn thành tốt nhiệm vụ, đều được coi trọng, đều vẻ vang như nhau.
Ngay cả với những người lầm đường, lạc lối hay phạm sai lầm, lòng thương yêu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở rộng thành lòng khoan dung. Người nói: "Năm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ".
Tư tưởng yêu thương con người được Hồ Chí Minh nêu lên và vận động mọi người cùng thực hiện suốt cả cuộc đời. Khi nằm trên giường bệnh trong những ngày Người đau nặng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không đề cập một lời nào về diễn biến sức khỏe của mình. Những giây phút cuối cùng đó, Bác còn nghĩ đến miền Nam, đến hạnh phúc và niềm vui của đồng bào miền Bắc. Người hỏi: "Trong Nam , mấy hôm nay đánh thế nào?", Người hỏi: "Quốc khánh năm nay, có đốt pháo hoa cho đồng bào vui không?".
Và trong bản Di chúc, khi để lại "muôn vàn tình thương yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh thiếu niên và nhi đồng", và "gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế", Người vẫn ân cần nhắc nhở toàn Đảng phải tiếp tục chăm lo cho con người. Trước hết là những người đã hy sinh một phần xương máu cho công cuộc kháng chiến, là cha mẹ, vợ con thương binh, liệt sĩ, là bà con nông dân, là thanh niên, phụ nữ... lo cho hiện tại, lo đào tạo cho tương lai; ngay cả "với những nạn nhân của chế độ cũ như: trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu... thì Nhà nước phải vừa giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện".
2. Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta
Cuộc sống đời thường đạm bạc nơi chiến khu Việt Bắc, theo Bác suốt những năm dài kháng chiến là mái lán đơn sơ của cây rừng Việt Nam . Ở nơi đâu Bác cũng tạo nên một không khí bình thản, tự tại, một cuộc sống đầm ấm mang nặng tình đồng chí để vượt qua thử thách, gian nan thiếu thốn của cuộc kháng chiến. Kháng chiến thắng lợi, trở về thủ đô Hà Nội, nhưng Bác không về ở trong ngôi nhà Toàn quyền cũ vì Bác bảo, Bác chứ không phải vua, Chủ tịch một nước còn nghèo, chưa có quyền hưởng thụ quá mức trung bình của người dân. Bác quyết định chọn cho mình ngôi nhà của người thợ điện ngày trước, nơi mà mùa nóng thì nhiệt độ cao hơn hẳn xung quanh, ngày thiếu ánh sáng phải thắp đèn.
Năm 1958, Trung ương quyết định xây nhà cho Bác, nhưng Bác đề nghị chỉ nên làm một căn nhà nho nhỏ theo kiểu nhà đồng bào dân tộc ở Việt Bắc, giống như ngôi nhà Bác đã từng ở trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Khác hẳn với công trình kiến trúc đồ sộ, bề thế như Phủ Chủ tịch và các ngôi nhà xây dựng bằng những nguyên liệu bền vững như sắt, thép, xi măng,... trong khu vực, ngôi nhà sàn của Bác được xây dựng bằng gỗ bình thường, được thiết kế theo kiểu nhà sàn của đồng bào dân tộc ở Việt Bắc: nhà hai tầng, xung quanh có mành che, tầng dưới để thoáng.