"Hồ Chí Minh chỉ có bạn, không có kẻ thù"
- Việt Nam ta vốn là nước nhỏ, chúng ta lại liên miên trải qua nhiều cuộc chiến tranh. Bang giao với quốc tế luôn là câu chuyện vô cùng tế nhị, đòi hỏi nghệ thuật cao. Nếu nhìn lại con người Hồ Chí Minh, theo ông, những nét đặc sắc trong tư tưởng và phương pháp ngoại giao của Người là gì?
Trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng vì độc lập thống nhất đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta một di sản lớn, đó là tư tưởng Hồ Chí Minh mà chúng ta đang tiếp tục nghiên cứu, học tập và vận dụng. Hồ Chí Minh ít viết, thậm chí ít nói trực tiếp về lý luận đối ngoại, nhưng chủ yếu bằng thái độ và hành động có tính hệ thống và nhất quán, Người đã chỉ cho chúng ta thấy một tư tưởng lớn về ngoại giao với những đặc điểm hết sức độc đáo và đầy hiệu quả. Sau nhiều năm suy ngẫm, đến đầu năm 2010 tôi có viết một cuốn sách nhỏ nhân dịp kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh do nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành mà tôi gọi là "Suy ngẫm về trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh".
Theo tôi, trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh có những đặc điểm chính nổi bật như sau:
a) Đây là sự sáng tạo của Bác Hồ, lãnh tụ của một dân tộc nhỏ, bị mất nước, vừa khởi nghĩa giành lại chủ quyền thì phải đương đầu với những thế lực xâm lược mạnh nhất thế giới. Từ bài học lịch sử phải "đem sức ta mà giải phóng cho ta", lấy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc làm nội lực giải phóng, đồng thời trong điều kiện của thế kỷ XX kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại bằng cách làm cho bộ phận nhân dân thế giới ngày càng đông đảo đứng về phía ta đấu tranh vì chính nghĩa.
b) Đây là sự vận dụng triết lý "Bốn biển đều là anh em" của Hồ Chí Minh, không muốn coi bất cứ một đối tượng nào, từ một người đến một nước là kẻ thù và luôn tìm cách để chỉ có bạn, không có thù. Mong ước có vẻ "viển vông" ấy trong thực tế cuộc đấu tranh lâu dài của nước ta ngày càng trở nên hiện thực và đây là điều kỳ lạ của trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh.
c) Một nội dung cơ bản và rất phong phú của trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh là "Dĩ bất biến, ứng vạn biến". Đó là phương pháp cách mạng nói chung và phương pháp ngoại giao nói riêng của người biết lượng sức mình, sức người; đặc biệt là khi sức người lớn hơn sức mình quá nhiều; biết giành thắng lợi từng bước, bước nào chắc bước ấy, bước trước chuẩn bị cho bước sau. Qua mỗi bước, trên cơ sở giữ chắc cái "bất biến" là mục tiêu cuối cùng, biết "vạn biến" để tiến đến đạt cái "bất biến".
d) Xây dựng sức mạnh tổng hợp chính trị-quân sự-ngoại giao làm sức mạnh liên hoàn, trong đó có một điều độc đáo là "vừa đánh, vừa đàm", kết hợp sức mạnh quân sự và ngoại giao. Đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh thắng lợi trên chiến trường mà còn có vai trò tích cực và chủ động. Đây là sự sáng tạo của trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh. Trong kháng chiến trường kỳ của dân tộc chống ngoại xâm, sức mạnh đó đã tạo ra sự trùng lặp lịch sử kỳ tác là sau Điện Biên Phủ (mặt đất) thì có Hiệp định Geneve, sau "Điện Biên Phủ trên không" thì có Hiệp định Paris.
e) Một đặc trưng của trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh là trong tư duy, trong hành động công việc ngoại giao có phảng phất đạo đức của Bác Hồ. Hồ Chí Minh là người tài cao, đức cả. Đức của người là sự kết hợp nhuần nhuyễn đức của các bậc hiền nhân trong lịch sử là Nhân-Nghĩa-Trí-Dũng-Liêm với đạo đức cách mạng mà Người truyền đạt cho cán bộ, đảng viên là: Cần-Kiệm-Liêm-Chính-Chí công-Vô tư.
Từ đó, trong công việc ngoại giao của Hồ Chí Minh có phảng phất những nét đặc trưng của của đạo đức, lối sống, phong cách của Người là sự giản dị, chân thành, trung thực, cởi mở và rất "nên thơ" trong hình ảnh của một tiên ông hiền hoà, râu tóc bạc trắng, ngực Bác bên trong là một trái tim nhân hậu và bên ngoài không hề có một tấm huân chương.
- Thưa ông, tại sao gọi là "trường phái Ngoại giao Hồ Chí Minh"?
Vì đó là một tập hợp tư tưởng và phương pháp luận rất nhất quán và độc đáo, khác với lối tư duy và phương cách của một số "trường phái" mà chúng ta đã biết. Thật sự trên thế giới đã từng có những trường phái ngoại giao khác nhau. Tôi có thể kể ra hai loại sau đây:
Trường phái mang tên nhà ngoại giao Ý ở thế kỷ XVI là Nicolo Machiaveli: đây là một trường phái ngoại giao cực đoan với tuyên ngôn bất chấp đạo đức, bằng mọi biện pháp và thủ đoạn vô liêm sỉ, miễn đạt được mục đích chính trị và ngoại giao. Vì vậy ở châu Âu người ta dùng từ "makiavelic" để nói về tính xảo trá trong hành vi hoạt động chính trị và ngoại giao.
Cũng có tư duy khác của một số người tham gia các cuộc cách mạng cho rằng ngoại giao là đấu tranh giai cấp trên phạm vi quốc tế, do đó từ lợi ích giai cấp mà phân định bạn thù, lấy lập trường giai cấp chỉ đạo hành vi và mục tiêu hoạt động ngoại giao.
Khác với những cách nghĩ và cách làm đó, theo nghiên cứu và suy ngẫm của tôi, trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh là xây đắp quan hệ quốc tế vì lợi ích dân tộc, trong đó giai cấp cũng phải gắn với dân tộc và nằm trong dân tộc. Tổ quốc là trên hết. Tất cả những cái khác đều là phương tiện để phục vụ cho nhân dân và cho Tổ quốc.
Nội dung cụ thể mà ngoại giao Việt Nam phải phấn đấu đạt được cho dân tộc cũng phù hợp với mục tiêu Hồ Chí Minh hằng ước mong thực hiện cho bằng được là: "nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành" ( tức là ai cũng được hạnh phúc). Nhưng lợi quyền bền vững cho đồng bào mình, cho Tổ quốc mình chỉ có thể đạt được khi biết tìm điểm cân bằng lợi ích giữa các lực lượng trên thế giới, thực chất là phải biết tôn trọng lợi ích của cả các dân tộc khác. Cốt lõi của những nội dung này là hướng tới mục tiêu Con Người và Hạnh Phúc Con Người ( tôi nhấn mạnh mấy từ này) với cả hai tư cách là đồng bào và đồng loại.
Từ đó đích của ngoại giao Hồ Chí Minh là Hòa bình, Hữu nghị và Hợp tác.
- Trong suốt 65 năm qua, chúng ta đã làm được những gì và những gì chúng ta chưa làm được từ tư tưởng của Bác?
Điều quan trọng nổi bật nhất nhân dân ta đã làm được trong sự nghiệp cách mạng giành độc lập và thống nhất đất nước là ở trong nước, chúng ta đã vận dụng thành công tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thời trên trường quốc tế, chúng ta ngày càng tìm được thêm nhiều bạn, ngày càng giảm bớt đi nhiều thù.
Đây là tinh thần nhất quán của tư tưởng Hồ Chí Minh đã được xác lập ngay trong bản Chính cương tóm tắt và Sách lược tóm tắt do Người đề xướng từ ngày thành lập Đảng 3/2/1930 và càng tỏa sáng khi Người chủ trương thành lập mặt trận Việt Minh năm 1941. Tư tưởng đó được phát triển đầy sáng tạo trong 65 năm qua, kể từ ngày Cách mạng tháng Tám và biểu hiện sinh động trong cuộc tổng tuyển cử đầu tiên thành lập chính phủ đại đoàn kết dân tộc năm 1946. Chỉ ngoại trừ một số kẻ cam tâm làm tay sai cho đế quốc thực dân xâm lược, Hồ Chí Minh coi mọi tầng lớp, mọi thành phần giai cấp cấu thành dân tộc đều có chỗ đứng trong đội ngũ kháng chiến và xây dựng đất nước.
Trên thế giới, Hồ Chí Minh chỉ cố gắng tìm bạn, không muốn coi ai là kẻ thù. Trong quan hệ quốc tế, triết lý đó được thể hiện qua cố gắng của Hồ Chí Minh bền bĩ, kiên trì đoàn kết trong mọi hoàn cảnh với các nước bạn, với các lực lượng đồng minh và yêu chuộng hòa bình công lý trên toàn thế giới, kể cả nhân dân ở các nước đối đầu với Việt Nam.
Nhờ vậy mà chúng ta đã thành công trong cuộc đấu tranh lâu dài giành độc lập, thống nhất.
Tuy nhiên, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới hiện nay là một nhiệm vụ chưa có tiền lệ. Vì vậy chúng ta phải vừa có tinh thần kế thừa trung thực, vừa đòi hỏi phải sáng tạo không ngừng. Đó là một thách thức trí tuệ.
Nhà ngoại giao lão thành Võ Văn Sung là một trong số rất ít những người đã trực tiếp tham gia thời kỳ đặc biệt chuẩn bị và tiến hành đàm phán bí mật Việt Nam - Hoa Kỳ năm 1968-1973. Là đại sứ đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Pháp và một số nước Tây âu sau Hiệp định Paris, đại diện cho Chính phủ ta giữ mối tiếp xúc với Mỹ trong thời kỳ từ 1974 đến 1979 và sau này là đại sứ Việt Nam tại Nhật Bản, ông còn giữ lại nhiều dấu ấn sâu đậm về lịch sử quan hệ với các nước vốn là đối thủ cũ của Việt Nam về phong trào Việt kiều tại các nước phương Tây. Ông đã đúc kết những trải nghiệm của chính bản thân mình về vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công việc ngoại giao trong cuốn sách mang tựa đề "Suy ngẫm về trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh" do nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành đầu năm 2010. |
- Theo ông, liệu có gì trở ngại khiến chúng ta chưa làm được những tư tưởng đó của Người?
Cách mạng Việt Nam đã giành được những thắng lợi vẻ vang, nhưng cũng có lúc vấp váp sai lầm. Có giai đoạn, xu hướng ấu trĩ tả khuynh đã đi ngược lại tư tưởng chỉ đạo nhất quán của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Điều đó từng xảy ra trong thời kỳ từ cuối năm 1930 đến trước khi Hồ Chí Minh trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng năm 1941. Bệnh tả khuynh cực đoan thường cường điệu đấu tranh giai cấp, coi nhẹ đại đoàn kết dân tộc. Hậu quả là phong trào cách mạng phải nhận những bài học đắt giá với tổn thất và thoái trào. Sau năm 1945 xu hướng đó vẫn có lúc tác động ở các mức độ và qui mô khác nhau. Ví dụ cuộc đấu tố trong cải cách ruộng đất năm 1954-1955 là một sai lầm để lại hậu quả nghiêm trọng mà Đảng ta sau đó đã thành khẩn nhìn nhận và sửa chữa. Nguyên nhân những lỗi lầm này đều do không thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Để không mắc sai lầm, chúng ta phải biết vượt qua chính mình.
- Trong bối cảnh hiện nay, với vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế thì tư tưởng Hồ Chí Minh cần được quan tâm như thế nào?
Non nước Việt Nam ta trong thế kỷ XX được hưởng diễm phúc đặc biệt ngàn năm có một là đã sinh ra người con vĩ đại, một trí tuệ anh minh và một nhân cách lớn là Hồ Chí Minh. Thực tiễn sinh động đã và tiếp tục minh chứng và khẳng định chân lý của tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng ta không chỉ cần quan tâm mà phải thực lòng học tập, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người. Đây là một nội dung lớn, nên tôi chỉ xin đề cập đến một vấn đề quan trọng. Ngày nay trong thời kỳ hòa bình xây dựng, Đảng đã coi quá độ đi đến chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, không thể tùy tiện bỏ qua. Thời gian quá độ đối với một nước đi lên từ kinh tế nông nghiệp lạc hậu, nghèo khổ thì phải lâu dài.
Trong thời kỳ quá độ, chúng ta đã thừa nhận qui luật kinh tế thị trường, tôn trọng và tạo điều kiện bình đẳng cho tất cả các thành phần kinh tế phát triển. Như vậy ít nhất trong vòng 30 năm đến 50 năm trước mắt, tất cả các tầng lớp, các thành phần giai cấp đã từng đoàn kết đấu tranh giành độc lập thống nhất dưới lá cờ của Hồ Chí Minh, nay lại cùng nhau góp phần xây dựng đất nước. Trong điều kiện như vậy, chúng ta càng phải kiên trì tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh.
Rõ ràng lịch sử một lần nữa khẳng định nhu cầu tất yếu phải huy động sức mạnh toàn dân, không phân biệt giai cấp, thậm chí không phân biệt chính kiến, miễn là họ có lòng yêu nước, để cùng góp phần cho mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Chỉ với tinh thần đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, chúng ta mới có thể động viên tối đa nguồn lực trong nước, đồng thời đón nhận những đồng bào Việt Nam ở nước ngoài cùng về xây dựng đất nước.
Trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh trang bị cho chúng ta khả năng dang rộng vòng tay đại đoàn kết để ôm lấy đồng bào mình, và xa hơn nữa còn đưa cánh tay hòa bình, hữu nghị và hợp tác với tới tất cả các dân tộc và quốc gia khác trên thế giới. Đó gọi là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Nếu trước đây chúng ta đã vận dụng sức mạnh tổng hợp chính trị-quân sự-ngoại giao để giành thắng lợi cho sự nghiệp độc lập thống nhất nước nhà, thì nay phải coi trọng cả sức mạnh kinh tế và văn hóa. Theo tôi, ngày nay chúng ta phải tạo cho được sức mạnh liên hoàn chính trị-văn hóa-kinh tế-ngoại giao-quốc phòng. Mặt mạnh đỡ cho mặt non yếu, từng bước phát triển hài hòa và toàn diện, dựa vào phương châm nhất quán của Hồ Chí Minh là đoàn kết dân tộc gắn với đoàn kết quốc tế.
Trên tinh thần đó, ta phải luôn tôn trọng ý kiến và nguyện vọng của toàn dân. Đảng không chỉ lãnh đạo theo "ý Đảng, lòng dân", mà còn phải làm theo ý dân và lòng dân. Như vậy thì Nhà nước ta sẽ trở thành "nhà nước của dân, do dân, vì dân". Chúng ta cũng cần thành tâm khắc phục những tàn dư ấu trĩ tả khuynh vẫn rơi rớt đâu đây và tiếp tục gây cản trở, làm chậm bước đi, thậm chí đẩy lùi sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh. Vượt qua được lực cản tư duy, chúng ta sẽ có đủ sức mạnh kiên định giương cao ngọn cờ đại nghĩa của Hồ Chí Minh, làm cho tư tưởng "đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết" của Người trở thành bất diệt.
Cách sống, cách suy nghĩ và hành động đầy trượng nghĩa của Hồ Chí Minh chính là cách hay nhất, có sức thuyết phục đối với tất cả chúng ta, kế cả với những người vốn không đồng chính kiến.
Như vậy, đại đoàn kết ngày nay càng phải mở rộng ra khỏi biên giới lãnh thổ, tạo sự thân thiện, đồng thuận, hợp tác giữa đồng bào Việt Nam với nhau và giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc khác trên thế giới. Tóm lại cốt lõi ta phải nắm vững trong tư tưởng của Hồ Chí Minh là lấy đại đoàn kết dân tộc gắn với tinh thần "bốn biển đều là anh em" làm kim chỉ nam cho hành động của chúng ta.
Nhân kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh và tiến tới Đại hội Đảng lần thứ XI, tôi mong Cương lĩnh đổi mới của Đảng ta trong thời kỳ quá độ sẽ thấm nhuần và phát huy sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, vì một nước Việt Nam Độc lập-Tự do-Hạnh phúc.