Hãy nhìn lịch sử bằng con mắt khách quan hơn!
Cũng định kiến đó (với nhà Nguyễn nói chung), những nhân vật như Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Quang Định, Ngô Nhân Tịnh, đặc biệt là Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký, đã không được đánh giá đúng mực. Tiếc thay, những định kiến này tồn tại khá lâu, được thể hiện trong nhiều tài liệu, được dạy trong nhà trường nhiều năm nên ít nhiều làm lệch lạc suy nghĩ của không ít thế hệ người đọc, người học.
Mới đây, đã có người “thử bào chữa cho hoàng đế Lê Long Đĩnh” (tác giả Hoàng Hải Vân, báo Thanh niên,ngày 11 - 2 - 2008). Trước đó, trên www.chimviet.free.fr, bác sĩ Hồ Đắc Duy cũng đã đưa ra nghi vấn liệu Lê Long Đĩnh có thực sự bị bệnh trĩ, có thực sự là một hôn quân như các bộ sử cũ đã ghi lại hay không. Các chứng cứ mà các tác giả đưa ra vốn đã có trong các tài liệu của Việt Nam (từ các bộ sử cũ) và kể cả của Trung Quốc (mà hiện nay có điều kiện để tiếp cận, tìm hiểu). Thế nhưng tại sao đã nhiều năm không ai nêu ra những nghi vấn về vua Lê Long Đĩnh. Chẳng hạn, vị vua này có thực sự giết anh đoạt ngôi hay không, một vị vua có sự quan tâm đến kinh Phật, đến sách vở lễ giáo thì có phải là hôn quân hay không, một vị vua bị bệnh trĩ phải “ngoạ triều” thì có thể cầm quân đánh trận không… Phải chăng vì sự “đóng đinh” của Đại Việt sử ký toàn thưtừ hơn 500 năm mà các nhà nghiên cứu lịch sử hiện nay không tiếc gì mà không bồi thêm những “chiếc đinh” khác? Phải chăng khi một điều đã được mọi người tin tưởng và nghe theo thì không nên nói điều ngược lại? Chắc rằng nếu những nghi vấn về vua Lê Long Đĩnh được giải đáp thì rất nhiều trường hợp khác cũng được nhìn nhận lại khách quan hơn, thay vì theo định kiến lâu nay.
Liệu có còn những sự kiện hay nhân vật nào chưa được sự thật lịch sử làm cho sáng tỏ, minh oan hoặc trả lại sự công bằng? Chắc là có không ít. Một thời, các nhà nghiên cứu lịch sử coi như đã “chốt” lại các trường hợp nghi vấn, chẳng hạn như vào những năm 1960, có người tuyên bố rằng vấn đề Phan Thanh Giản đã được kết luận, không cần bàn cãi gì nữa, thế nhưng bây giờ đã có sự nhìn nhận khác. Cũng tương tự vậy, chúng ta đã nhìn nhận lại Nguyễn Bặc, nhiều chúa Nguyễn, nhiều quan lại nhà Nguyễn, kể cả một số nhân vật cận đại và hiện đại như Hoàng Cao Khải, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh… Do đó, một số nghi vấn lịch sử khác như liệu thời Hùng Vương, nước ta đã có chữ viết chưa (như có tài liệu cho rằng có chữ “khoa đẩu”); Triệu Đà liệu có công lao gì với nước ta hay không (tại sao nhiều nhà viết sử phong kiến đã xem nhà Triệu là một triều đại của nước ta?); những quan đô hộ các triều đại phương Bắc liệu có công cán gì trong việc “khai hoá” nước ta hay không (chẳng hạn Sĩ Nhiếp, Cao Biền…); liệu có mấy ông Lê Lai ở thời Lê; cách hành quân thần tốc của vua Quang Trung và lăng mộ của vị vua này hiện nay… Thậm chí những câu chuyện mang tính huyền thoại thời hiện đại cũng cần được giải đáp đầy đủ, mà trường hợp “cậu bé tẩm dầu Lê Văn Tám” là một ví dụ.
Trong điều kiện tiến bộ về khoa học công nghệ như hiện nay, sự xác minh các nghi vấn lịch sử là hết sức cần thiết. Thế nhưng, việc làm này cũng cần có những bước đi thích hợp, tức là vấn đề nào giải quyết trước, vấn đề nào giải quyết sau; vấn đề nào có thể phổ biến dưới dạng sách giáo khoa, vấn đề nào chỉ để tham khảo… Quá trình này phải tuân thủ nghiêm túc các yêu cầu khoa học, không nên thay định kiến này bằng định kiến khác, cũng không nên vì mục đích làm rõ mà “đổi trắng thay đen”, làm “rối ren lịch sử”. Ngoài ra, cũng cần tránh những điều tế nhị trong quan hệ quốc tế khi công bố những sử liệu mới hoặc dùng các sử liệu này để phản ánh thái độ, chính kiến của người hiện nay với các quốc gia có liên quan. . . Từ những “bất cập” trong nhìn nhận lịch sử trong thời gian qua, những người làm công tác khoa học lịch sử cần có quan điểm, phương pháp mới hơn, khoa học hơn, khách quan hơn về công tác này. Dẫu biết rằng, khoa học lịch sử có tính giai cấp, nhưng dù đứng trên lập trường nào cũng phải tôn trọng và khách quan với lịch sử. Do đó, một tác phẩm nghiên cứu lịch sử, một nhận định về lịch sử nếu bị đánh giá sai lầm hoặc lệch lạc do điều kiện khoa học công nghệ, do điều kiện tư liệu thì có thể chấp nhận, nhưng nếu do định kiến, do chủ quan thì thật đáng trách và vô cùng tai hại. Giở lại những tác phẩm lịch sử viết cách đây trên 20 năm, ta dễ dàng nhận thấy nhiều điều rất ấu trĩ và sai lầm, trong đó không ít là do định kiến lệch lạc. Do đó người viết sử không chỉ làm công việc ghi chép quá khứ và hiện tại mà còn phải giúp người đọc qua đó có thể học tập được điều gì cho hiện tại và tương lai, và nhất là sau này khi đọc lại tác phẩm của mình, không phải thấy xấu hổ vì sự nông cạn, ấu trĩ.
Nguồn: Xưa & Nay, số 309, 6 - 2008, tr 41








