Hán-Việt và thuần Việt (kỳ 2)
Nhà ngôn ngữ học
Qua hơn 1.000 năm Bắc thuộc, tiếng Việt đã mượn của tiếng Hán một số từ ngữ nhiều gấp bốn lần vốn từ ngữ đã có trước đó. Trong số từ vay mượn này, có những từ “bình dân” dần dần được người bản ngữ đồng hóa và dần dần có được một dáng dấp ngữ âm riêng, được dùng y hệt như những từ gốc của bản ngữ, và đến vài ba thế hệ sau khi vay mượn, không còn bị người bản ngữ tri giác như những từ ngoại lai nữa.
Bên cạnh đó, có những từ ngữ Hán đi vào tiếng Việt theo con đường “bác học”, chủ yếu là qua các văn bản hành chính sự vụ mà ngay trong các triều đại đã giành được độc lập cũng được viết bằng chữ Hán cổ điển. Đó chính là tiền thân của các từ “Hán-Việt” sau này. Những từ này có một diện mạo ngữ âm được quy định chính xác theo các tự điển Trung Quốc - theo cách chú âm bằng thủ pháp “phiên thiết”. Do đó các nhà nghiên cứu thường thấy cần phân biệt những từ ngữ gốc Hán “bình dân” và những từ “Hán-Việt”.
Dĩ nhiên sự phân biệt này hoàn toàn có cơ sở. Nhưng nó không đủ để phân biệt đối xử với những từ như đầu, tính, dân, học, hiểuđược coi như những từ “thuần Việt” và với những từ ngữ như đại bác, tín nhiệmđược coi là cần được loại bỏ trong chừng mực có thể.
Khi dựng lên sự phân biệt nhân tạo giữa “Hán-Việt” và “thuần Việt”, người ta thường quên mất rằng hầu hết những từ được gọi là “thuần Việt” cũng đều có nguồn gốc ngoại quốc (Thái, Mã Lai, Chăm, Cam-pu-chia, Quảng Đông, Ấn Độ, v.v.), không kém gì các từ “Hán-Việt” và các từ mới vay mượn của tiếng Pháp, tiếng Anh.
Thật ra, cái sắc thái đặc biệt mà người ta tri giác được ở các từ Hán-Việt không phải là do một đặc trưng “ngoại quốc” gì của các từ này. Chẳng hạn, xét về ngữ âm, các từ Hán-Việt đều có một cấu trúc âm tiết chuẩn mực của những từ thuần Việt, như các công trình nghiên cứu cấu trúc ngữ âm của các từ Hán-Việt đã cho thấy, chứ không có một âm hưởng là lạ như các từ vay mượn như pa-tê, goòng, soóc, xéc, boong, tỉm xắm, vằn thắn(kể cả những tên riêng Quảng Đông như Coóng, Dzếnh).
Sở dĩ các từ Hán-Việt được một số người Việt “có học” phân biệt với các từ “thuần Việt” trong đó có cả các từ gốc Hán được phát âm đúng như trong tự điển phiên thiết như đầu, dân, hiểu, học, là vì những lý do khác, không mấy khi được ý thức rõ ràng. Đó là:
1. Những yếu tố “Hán-Việt” không được dùng “độc lập” như các yếu tố “thuần Việt”, mà chỉ xuất hiện trong những tổ hợp hai tiếng trở lên. Sự phân biệt này trở nên quan trọng và có dáng “khoa học” kể từ khi giới học giả Việt Nam phát hiện ra cái chuẩn tắc hình thức của phái ngữ học miêu tả dùng sự khu biệt giữa “bound forms”và “free forms”làm nguyên tắc toàn năng và tuyệt đối quyết định mọi thao tác phân tích và thuyết minh ngôn ngữ học.
Thật ra nguyên tắc này, tuy có một tác dụng thực tiễn nhất định, nhưng xét về lý thuyết hoàn toàn không liên quan gì đến ngôn ngữ học, cho nên nếu được ứng dụng một cách máy móc, sẽ dẫn đến những sự lầm lẫn hết sức thô lậu, như chúng tôi đã chứng minh trong khá nhiều bài vở, và như giới ngữ học thế giới sau những năm 30 đã thấy rõ. Riêng trong lĩnh vực đang xét, nó dẫn tới những kết quả phi lý sau đây:
quốc ca là một từ, nhưng dân ca là hai từ
súng trườnglà một từ, nhưng súng ngắn là hai từ
hải quân là một từ, nhưng không quânlà hai từ
Cái chuẩn tắc thô thiển này phủ nhận tư cách từ của tất cả những từ bao giờ cũng đi với một phụ ngữ (bổ ngữ hay định ngữ); đó là các vị từ ngoại động ( transitive verbs) như nai(lưng) hay các danh từ đơn vị ( unit nouns) như chiếc(đũa) chẳng hạn, và làm nảy sinh ra những sự ngộ nhận đáng xấu hổ trong lý thuyết ngữ học phổ thông, như khái niệm “loại từ” ( “classifier”) chẳng hạn, mà mãi gần đây (đến tận 1994) vẫn có người còn chưa thấy rõ tính phi lý.
(Còn nữa)