Giữ cho bộ não nhạy bén
Bộ não của bạn cũng vậy, dù bạn bận rộn công việc đến đâu cũng đừng quên giúp não nhạy bén bằng bốn cách sau đây:
Thường xuyên rèn luyện thể lực và trí lực: bằng cách luôn luôn học hỏi những điều mới. Trong thời đại hiện nay, thông tin tràn ngập, chọn những điều hay để học tập, vừa giúp chúng ta không lạc hậu, vừa rèn trí não được nhạy bén. Việc này cần thực hiện suốt đời, từ lúc còn trẻ đến khi già, dù là 10 tuổi hay 80 tuổi đều cần thiết như nhau. Những người cao tuổi có học vấn cao và dinh dưỡng đúng sẽ không có biểu hiện giảm chức năng trí tuệ tuổi già. Ngược lại, người có học vấn thấp có nguy cơ bị bệnh Alzheimer cao hơn.
Thói quen đọc sách ở tuổi 6 đến 18 tuổi là yếu tố tiên lượng chủ yếu của chức năng trí não trong những thập niên sau của cuộc đời, những học sinh có thói quen đọc sách thì khi trưởng thành sự nhận thức nhạy bén hơn.
Song song với rèn luyện trí não cũng cần hoạt động thể lực thường xuyên để tăng tuần hoàn não. Một nghiên cứu cho thấy: đi bộ thường xuyên sẽ cải thiện trí nhớ, giảm dấu hiệu của chứng mất trí nhớ, tối thiểu 1.000 bước hoặc hơn 1,5 km mỗi ngày mới có hiệu quả.
Cung cấp những chất dinh dưỡng cần thiết cho não: Acetylcholin là chất dẫn truyền thần kinh tại điểm tiếp xúc của tế bào thần kinh, giúp não nhạy bén, tỉnh táo, cải thiện trí nhớ giúp ta tiếp thu những thông tin mới. Acetycholin được tạo ra bởi cholin và phosphattidyl cholin, là phospholipid giúp tạo ra lớp myelin bao bọc dây thần kinh, tạo điều kiện cho các tín hiệu được truyền đi nhanh chóng; tăng hoạt động trí tuệ và cảm xúc, chống sự suy giảm trí nhớ. Nguồn thực phẩm giàu chất cholin là cá trích, lòng đỏ trứng, nội tạng động vật (gan, óc tuỵ, tạng, tim…), đậu nành, đậu phộng…
Chất kích thích não tự nhiên DMAE giúp tế bào não tăng tốc sản xuất acetylcholin; tác dụng thúc đẩy và cải thiện khả năng tư duy, học tập, giảm sự lo âu. Chất này có nhiều trong cá mòi.
Piroglutamat là axit amin kiểm soát sự truyền tín hiệu của não thông qua việc tăng sản xuất acetylcholin, nâng số lượng thụ thể của acetylcholin và giúp sự truyền tín hiệu giữa hai bán cầu não trái và phải. Piroglutamat có nhiều trong cá, sữa (và các sản phẩm từ sữa), rau quả tươi.
Omega 3 là thành phần chính của lớp myelin, điều chỉnh sự phóng thích và hoạt động của các chất dẫn truyền thần kinh và mã hoá thông tin ghi nhớ. Omega 3 có trong các loại cá béo như basa, bông lau, trích, hồi, thu, ngừ. Mỗi tuần ăn ba bữa cá béo sẽ giảm nguy cơ sơ vữa động mạch.
Các vitamin B1, B2, B3 giúp tế bào não sử dụng oxy để hoạt động. Vitamin B3, B5, B6, B12 và kẽm giúp tăng trí nhớ và nhạy bén. Các loại vitamin B có trong ngũ cốc nguyên hạt, rau, chuối; B12 có trong thịt, cá, sữa, trứng; kẽm có trong các loại: hàu, nghêu, sò, ốc, hến…
Ngủ đủ giấc sẽ giúp não thư giãn, phục hồi khả năng tư duy sáng tạo. Người bình thường cần ngủ 8 giờ mỗi ngày, khi cơ thể bộ não mệt mỏi sẽ cảm thấy muốn ngủ nhiều hơn, đừng nên cưỡng lại khi buồn ngủ. Người mất ngủ thường xuyên thì khả năng làm việc của trí não sẽ giảm. Hơn nữa, mất ngủ kéo dài cũng là nguyên nhân gây stress.
Tránh tác hại của stress: stress tác hại đến trí não rất nhiều, nếu stress nhẹ có tác dụng kích trí não tăng cường hoạt động, nhưng stress nặng hoặc stress kéo dài thì phóng thích nhiều hormon cortisol vào máu, mức cortisol tăng làm cho trung tâm phân loại trí nhớ của não bị co lại nên trí nhớ kém hơn; thí dụ một thí sinh bị điểm kém là một stress nhẹ cần được sự động viên của ba mẹ, người thân để em cố gắng học đạt điếm giỏi, nhưng nếu bị điểm kém cộng với sự quở mắng của thầy cô bạn bè, về nhà bị ba mẹ phạt đòn roi sẽ là stress kéo dài ảnh hưởng hoạt động trí não của em. Nhưng điều may mắn là việc teo tế bào não chỉ là tạm thời, khi hết stress, mức cortisol hạ xuống thì nhánh các tế bào thần kinh sẽ phát triển trở lại; vì thế, khi gặp chuyện buồn rầu hay khó khăn trong cuộc sống, cố gắng giải quyết nhanh rồi quên nó đi.
Một cách giảm stress là tránh ăn quá ngọt (nhiều đường) và tránh dùng chất kích thích (rượu, bia, thuốc lá, thuốc lào…) càng lệ thuộc vào chất kích thích thì lượng đường huyết sẽ càng dao động, và con người càng phản ứng căng thẳng với thách thức trong cuộc sống.
Nguồn: Thuốc & sức khoẻ số299, 01/01/2006







