Giới thiệu một số thư tịch cổ Trung Quốc viết về cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ nhất năm 1258
Nguyên sửvà tác giả Tống Liêm
Tống Liêm (1310 – 1381), tên tự là Cảnh Liêm, tên hiệu là Tiềm Khê, người Phố Giang (nay thuộc tỉnh Triết Giang). Năm Chí Chính thứ 20 (1360) Tống Liêm được Chu Nguyên Chương triệu tập, năm 1369 được giao chức Tổng tài bộ Nguyên sử,làm quan đến Hàn lâm Học sĩ Thừa chỉ, phụ trách việc viết Chế, Cáo. Minh sửchép vào đời đầu Minh “Mọi việc chế tác Lễ, Nhạc của một đời, phần nhiều đều do một tay Liêm xét định”, ông được mệnh danh là “người đứng đầu Văn thần khai quốc”.
Sau khi giành được vương quyền, thành lập ra triều Minh năm 1368, vào tháng 12 năm đó, Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương đã lập tức ban chiếu tiến hành biên soạn bộ quốc sử Nguyên sử,hơn nữa còn yêu cầu trong thời gian ngắn nhất phải hoàn thành công việc này. Lý do chính là xuất phát từ nhu cầu chính trị, Minh Thái tổ muốn thông qua việc biên soạn Nguyên sửđể chứng minh sự diệt vong của triều Nguyên và sự nối ngôi của triều Minh là bởi mệnh trời (Thiên mệnh). Tháng 2, năm Hồng Vũ thứ 2 (1369), giao cho Lý Thiện Trường giữ chức Giám tu, Tống Liêm, Vương Vĩ làm Tổng tài, Uông Khắc Khoan cùng 16 người làm Toản tu, bắt đầu đặt Sử cục tại chùa Thiên Giới thành phố Nam Kinh, tiến hành biên soạn Nguyên sử.
Nguyên sửbiên soạn theo thể Kỷ truyện,toàn bộ gồm 210 quyển, trong đó Bản kỷ 47 quyển, Chí 58 quyển, Biểu 8 quyển, Liệt truyện 97 quyển. Nội dung sách chép giai đoạn lịch sử hơn 160 năm, bắt đầu từ khi Nguyên Thế tổ xưng là Thành Cát Tư Hãn năm 1206 đến năm Chí Chính thứ 28 đời Nguyên Thuận đế năm 1368. Sách lưu giữ được nhiều sử liệu nguyên gốc, các ghi chép trong Thiên văn chí, Lịch pháp chí, Địa lý chí, Hà cừ chí (đê điều) là những tư liệu vô cùng quý giá.
Nhưng do thời gian biên soạn quá ngắn, hoàn thành sách quá gấp gáp, không thể tiến hành đối chiếu và sưu tầm, thu thập, sử dụng các nguồn sử liệu rộng khắp Trung Quốc, ngay đến bộ Nguyên triều bí sửrất quan trọng đối với lịch sử triều Nguyên cũng không thấy các tác giả trích dẫn trong sách. Vì vậy, bộ sách đã xuất hiện tới 3700 chỗ nhầm lẫn, trong đó có trường hợp một nhân vật nhưng lại chép tới 2 tiểu truyện.
Mặc dù còn tồn tại những thiếu sót đã nêu, nhưng Nguyên sửvẫn là một bộ sách đáng quý để giới nghiên cứu hiện đại có điều kiện tìm hiểu sâu sắc triều Nguyên. Đây là bộ quốc sử sớm nhất, ghi chép khá toàn diện về toàn bộ lịch sử triều Nguyên.
Về cuộc xâm lược Đại Việt lần 1 (1258) của Mông cổ Nguyên sửchép “Quý Sửu năm thứ 3 niên hiệu Nguyên Hiến tông (1253), Ngột Lương Hợp Thai (Đài) theo (Nguyên) Thế Tổ đánh dẹp Đại Lý, Khi Thế Tổ trở về, để Ngột Lương Hợp Thai ở lại đánh nốt các di chưa quy thuận.
… Đinh Tị, năm thứ 7 niên hiệu Nguyên Hiến tông (1257), tháng 11, Ngột Lương Hợp Thai đem quân tiếp đánh phía bắc Giao Chỉ, trước đó sai hai viên sứ giả đến chiêu dụ (Giao Chỉ), không thấy trở về, bèn cử bọn Triệt Triệt Đô đem hơn nghìn người, chia đường tiến quân, đến sông Thao ở Kinh Bắc An Nam, lại cử con của mình (Ngột Lương Hợp Thai) là A Thuật (1) theo làm viện binh, đồng thời dò la hư thực. Người Giao (Chỉ) cũng rầm rộ bày đặt binh vệ. A Thuật đem quân trở về báo cáo tình hình, Ngột Lương Hợp Thai hai đường tiến đánh, lệnh cho Triệt Triệt Đô làm tiên phong, A Thuật đi sau đoạn hậu. Tháng 12, hai đạo quân tập hợp, người Giao (Chỉ), thu chiến thuyền của giặc rồi trở về, Ngột Lương Hợp Thai cũng phá được quân bộ của Giao Chỉ. Hai bên cùng nhau hợp sức đột kích, đánh giặc thua to, vào được nước đó. Tìm được sứ giả cử đi trước bị giam trong ngục, trói bằng cật tre vào đến tận da, khi cởi ra một viên sứ đã chết, nhân thế, tàn sát kinh thành nước đó. Quân Nguyên lưu lại 9 ngày, vì khí hậu nóng nực, liền đưa quân về (nước), lại sai hai viên sứ giả chiêu dụ Nhật Cảnh đến quy phụ. Nhật Cảnh trở về, thấy cảnh kinh đô bị tàn phá, quá giận giữ, bèn trói hai viên sứ giả bắt trở về (nước).
Năm Mậu Ngọ, niên hiệu (Nguyên Hiến Tông) thứ 8 (1258), tháng 2, Nhật Cảnh giao nước cho con trưởng là Quang Bính, đổi niên hiệu là Thiệu Long. Mùa hè, Quang Bính sai con rể cùng người trong nước đưa thổ sản đến yết kiến (vua Nguyên). Ngột Lương Hợp Thai cho đưa đến tận nơi hành tại, biệt phái Nạp Thích Đinh vào phủ dụ: “Trước kia, ta đưa sứ sang thông hiếu, bọn ngươi giữ lại không cho (sứ) về, vì thế mới có việc năm ngoái ta đưa quân sang. Nghĩ rằng chủ nước ngươi gieo trồng nơi đồng nội, lại sai hai viên sứ chiêu an quy phụ, ngươi lại trói và bắt sứ ta phải trở về. Nay (ta) đặc phái đế sứ đến gia ơn phủ dụ. Nếu ngươi thực tâm quy phục, thì quốc vương nước gươi phải thân tự đến. Nhược bằng vẫn không hối cải, báo ta biết rõ”. Quang Bính viết: “Nước nhỏ thành tâm thờ trên, nước lớn lấy gì đối đãi?”. Nạp Thích Đinh trở về báo với Ngột Lương Hợp Thai. Khi đó chư vương Bất Hoa trấn giữ tại Vân Nam, Ngột Lương Hợp Thai tâu trình với vương, lại sai Nạp Thích Đinh sang (Giao Chỉ) phủ dụ, cho sứ (nước đó) được cùng sang. Quang Bính viết: “Đợi giáng âm đức, sẽ đưa con em sang làm tin”. Vương lệnh cho Nạp Thích Đinh truyền cho (sứ) vào dâng tâu (2).
Tân Nguyên sửvà tác giả Kha Thiệu Văn
Kha Thiệu Văn (1848 - 1933) tên tự là Phong Tồn, tên hiệu là Liêu Viên, người Giảo Châu thuộc tỉnh Sơn Đông, là một học giả có học vấn uyên thâm, là chuyên gia nghiên cứu lịch sử triều Nguyên và Nguyên sửnổi tiếng thời cận đại Trung Quốc. Năm 19 tuổi ông đỗ Cử Nhân, năm 38 tuổi thi trúng Tiến sĩ, được tuyển vào Hàn lâm viện, nhiều lần giữ chức Biên tu, Thị giảng, từng đảm nhiệm làm Toản tu Quốc sử quán và Viện trưởng Thanh sử quán.
Kha Thiệu Văn muốn sửa chữa, hiệu đính những sai lầm của Nguyên sử, ông đã dốc toàn bộ tâm trí, cần mẫn trong hơn 30 năm sưu tầm sử liệu về triều Nguyên trong bộ Vĩnh Lạc đại điểncùng các trước tác sử học triều Nguyên, bi ký, văn tập… của các triều đại trước Nguyên, dựa trên cơ sở của bộ Nguyên sửđể tiến hành biên soạn Tân Nguyên sử. Đây chính là cống hiến về khoa học lịch sử nổi bật nhất của ông. Năm 1920 bộ sách hoàn thành, năm 1922 được xuất bản công bố chính thức. Từ Thế Xương là Đại Tổng thống Trung Hoa Dân quốc lúc đó, đã hạ lệnh đưa Tân Nguyên sửvào chính sử. Cùng với Thanh sử cảo, Tân Nguyên sửđược chính thức xếp vào Nhị thập lục sử- Tổng tập quốc sử của Trung Quốc. Cũng với công trình này, Kha Thế Văn được Đại học Tôkyô của Nhật Bản trao tặng Học vị Tiến sĩ văn học.
Giới nghiên cứu trong nước và ngoài nước đều đánh giá cao tác phẩm của học giả họ Kha. Bộ Tân Nguyên sửlà tập đại thành nghiên cứu của hơn 500 nhà khoa học nổi tiếng Trung Quốc, bổ sung thêm nhiều nội dung, sửa chữa, đính chính được không ít sai lầm của Nguyên sử.Bộ sách biên soạn theo thể Kỷ truyện,tổng cộng có 257 quyển, bao gồm Bản kỷ 26 quyển, Biểu 7 quyển, Chí 70 quyển, Liệt truyện 154 quyển và bổ sung thêm phần Hành sảnh (tỉnh) Tể tướng niên biểu”tạo thuận tiện tra cứu cho người đọc.
Tuy nhiên trong quá trình biên soạn, tác giả Tân Nguyên sửvẫn để tồn tại một số khiếm khuyết mà các học giả hậu thế đã chỉ ra. Đó là bộ sách không có phần Nghệ văn chí, không có lời tựa, lời bạt, phàm lệ, khảo dị, tư liệu mới trích dẫn không ghi xuất xứ. Những điều trên khiến cho giới nghiên cứu về lịch sử triều Nguyên khi sử dụng tư liệu của bộ sách cảm thấy chưa thoả mãn. Đồng thời, Tân Nguyên sửcũng không thoát ra được nhược điểm của phương pháp biên soạn khi trùng tu cựu sử của các triều đại đều mắc phải là trùng lặp, dư thừa, số quyển rất nhiều. Nhưng dù sao khi nghiên cứu về lịch sử triều Nguyên trên mọi lĩnh vực không thể không sử dụng bộ Nguyên sửvà Tân Nguyên sử(3).
Về cuộc xâm lược Đại Việt lần 1Tân Nguyên sửchép “Năm thứ 7 niên hiệu Nguyên Hiến Tông (1257), Đại tướng Ngột Lương Hợp Thai (Đài) đã đánh dẹp được Đại Lý, chuyển quân sang Giao Chỉ, ba lần sai sứ giả dụ hàng, đều không trở về, thế là chia đường tiến đánh. Quân đến sông Thao, Nhật Chiếu lệnh quân lính cưỡi voi cự chiến. Con của Ngột Lương Hợp Thai là A Thuật, năm đó mới 18 tuổi, đưa lính thiện xạ bắn trúng voi, bầy voi kinh sợ, quay chạy giày xéo, quân (Giao Chỉ) đại bại. Ngày hôm sau, Nhật Cảnh chặt đứt cầu Phù Lỗ, bày quân bên bờ đối diện. Đại quân (Nguyên) chưa biết dòng sông sâu nông, dọc theo bờ sông bắn tên lên không trúng, tên rơi xuống nước mà không nổi thì biết được chỗ đó nước nông, tức là đưa kỵ binh sang sông. Nhật Cảnh thua chạy, chém tôn thất nước đó là Phú Lương hầu, đưa quân vào đô thành, tìm được 3 viên sứ giả cử đi trước, đưa ra khỏi ngục, bị trói bằng cật tre vào đến tận da, khi cởi ra một viên sứ đã chết, nhân thế, tàn sát kinh thành nước đó. Lưu lại 9 ngày, vì khí hậu nóng nực, liền đưa quân về (nước), lại sai hai viên sứ giả chiêu dụ Nhật Cảnh đến quy phục. Nhật Cảnh từ hải đảo trở về, thấy cảnh kinh đô bị tàn phá, quá giận dữ, bèn trói hai viên sứ giả bắt trở về (nước). Đến khi Nhật Cảnh truyền nước cho con là Quang Bính, đổi niên hiệu là Thiệu Long, sai con rể đem thổ sản đến yết kiến. Ngột Lương Hợp Thai cho đưa đến tận nơi hành tại, biệt phái Nạp Thích Đinh vào phủ dụ: “Trước kia, ta đưa sứ sang thông hiếu, bọn ngươi giữ lại không cho (sứ) về, vì thế mới có việc năm ngoái ta đưa quân sang. Nghĩ rằng chủ nước ngươi gieo trồng nơi đồng nội, lại sai hai viên sứ chiêu an quy phục, ngươi lại trói và bắt sứ ta phải trở về. Nay (ta) đặc phái sứ đến gia ơn phủ dụ. Nếu ngươi thực tâm quy phục, thì quốc vương nước ngươi phải thân tự đến. Nhược bằng vẫn không hối cải, báo ta biết rõ”. Quang Bính nhận được thư, nộp lễ khoản, lại viết: “Đợi giang âm đức, sẽ đưa con em sang làm tin” (4).
Tục tư trị thông giámvà tác giả Tất Nguyên
Tất Nguyên (1730 - 1797), tự là Thu Phàm, Tương Hoành, hiệu là Linh Nahm Sơn Nhân, người Trấn Dương (nay thuộc Thái Thương) tỉnh Giang Tô, đỗ Tiến sĩ năm Càn Long thứ 25 (1760) triều Thanh, từng giữ chức Thượng thư bộ Binh, Tổng đốc Hồ Quảng. Bộ Tục tư trị thông giám(vốn lúc đầu có tên là Tống Nguyên biên niên) do ông tiến hành biên soạn trong hơn 20 năm, trải qua 4 lần sửa chữa, bổ sung.
Sách viết theo thể Biên niênthông sử, phản ánh một giai đoạn lịch sử từ năm thứ nhất niên hiệu Kiến Long triều Tống (960) đến năm thứ 28 niên hiệu Chí Nguyên đời Nguyên (1368). Nội dung xuyên suốt toàn bộ lịch sử thịnh trị, hưng vong của 4 triều đại từ Tống, Liêu, Kim, Nguyên bao gồm 408 năm.
Bộ sách tổng cộng có 220 quyển, trong đó Tống kỷ 182 quyển được chép tương đối tỉ mỉ về triều Tống, Nguyên kỷ 38 quyển là phần ghi chép khá giản lược, triều Kim và triều Liêu tuy không thấy chép ở phần Mục lục, nhưng nội dung được ghi lại cũng tương đối với triều Tống. Bộ sách có phương pháp viết rất tường tận, hợp lý mà không rườm rà, tư liệu phong phú.
Khi Tất Nguyên còn sống, bộ sách chưa in khắc đầy đủ, mới chỉ được 103 quyển. Sau đó do gia đình họ Tất có dính líu vào một vụ tham ô công quỹ, nên bị tịch thu gia sản, vì vậy bộ sách không tiếp tục in khắc và bản thảo cũng bị thất tán. May thay, có người đồng hương là Phùng Tập Ngô mua được toàn bộ bản thảo và cho khắc bổ sung thành 220 quyển.
Tuy bộ sách Tục tư trị thông giámghi tên tác giả là Tất Nguyên, song từng được các nhà sử học nổi tiếng đầu đời Thanh như Tiền Đại Hân, Thiệu Tấn Hàm, Chương Học Thành, Hồng Lượng Cát, Hoàng Trọng Tắc… cùng nhau tham gia biên tập, chỉnh lý trong thời gian hơn 20 năm. Năm Gia Khánh thứ 6 (1801) triều Thanh, sách được công bố toàn bộ 220 quyển hoàn chỉnh (5).
Chép về cuộc xâm lược Đại Việt lần 1
“Mông Cổ niên hiệu Hiến Tông năm thứ 7 (Tống Bảo Hựu năm thứ 5 – 1257). Tháng 6, Ô Lan Cáp Đạt của Mông Cổ bình định được Vân Nam, xin được theo việc cũ của triều Hán, lấy di Tây Nam hoàn toàn làm quận huyện, cho phép được thực hiện. Gia phong Ô Lan Cáp Đạt chức Đại Nguyên soái, trở về trấn trị Đại Lý.
… Tháng 9, ngày Tân Dậu, Ô Lan Cáp Đạt của Mông Cổ sai sứ chiêu hàng An Nam, người An Nam sứ, bèn nghị bàn chinh phạt. Truyền báo động cho các châu ở biên giới.
… Mùa đông, tháng 10, ngày Canh Tý… Ô lan Cáp Đạt (6) của Mông Cổ tiến quân áp sát biên giới, quốc vương An Nam Trần Nhật Cảnh bày trận voi ngựa bên bờ sông Thao, quân bộ rất nhanh. Ô Lan Cáp Đạt chia quân làm 3 đội qua sông, Tề Tề Khắc Đồ (7) không ở lại mà sang sông trước, đại quân ở giữa, Phò mã Hoài Đô (8) cùng A Châu (9) đi đoạn hậu, lại trao cho Tề Tề Khắc Đồ phương lược: “Quân ngươi đã qua sông, không được đánh nhau với địch, bọn chúng tất sẽ chống lại, phò mã sẽ cắt hậu quân (của chúng), ngươi do thám rồi cướp thuyền của bọn chúng. Nếu quân man vỡ chạy, đến sông không có thuyền, tất sẽ bị ta bắt. Khi đại quân đã lên bờ, sẽ đánh nhau với chúng”. Tề Tề Khắc Đồ trái mệnh lệnh, người An Nam tuy đại bại, lấy được thuyền trốn đi. Ô Lan Cáp Đạt giận giữ: “Tiên phong làm trái kế hoạch của ta, nước có hình phạt”. Tề Tề Khắc Đồ sợ, uống thuốc độc tự tử. Ô Lan Cáp Đạt khi vào được An Nam, thì Nhật Cảnh đã trốn ra hải đảo. Mông Cổ tìm được sứ giả đã sai đi trước đó trong ngục, bị trói bằng cật tre vào đến tận da, khi cởi ra một viên sứ đã chết, nhân thế, tàn sát kinh thành nước đó. Nhật Cảnh xin nộp lễ khoản, Ô Lan Cáp Đạt bèn khao thưởng quân sĩ rồi cho về” (10).
Vài nhận xét
Qua những tư liệu thư tịch cổ Trung Quốc được trích dẫn trên kết hợp với ghi chép của các bộ sử Việt Nam, chúng ta có thể rút ra mấy nhận xét sau về cuộc kháng chiến chống xâm lược Mông Cổ lần 1 năm 1258.
- Quân Mông Cổ sau khi bình định được Vân Nam, đã thực hiện ý đồ xâm lược vùng đất phía Tây Nam, biến các quốc gia, dân tộc cư trú tại đây trở thành đất phụ thuộc vào Mông Cổ. Trong đó, lấn chiếm Đại Việt là một mục tiêu quan trọng để đột kích vào Nam Tống. Nhưng âm mưu thực sự của quân Mông Cổ vẫn muốn chiếm sứ Đại Việt, điều này được bộ lộ rõ trong ghi chép rất rõ của Nguyên sử. Các bộ sách đều thống nhất cung cấp thông tin với cùng nội dung: Sau khi Nguyên Thể Tổ chiếm được Vân Nam, đã sai viên tướng Ngột Lương Hợp Thai đưa quân xuống phía Nam đánh Giao Chỉ.
- Trước khi đưa quân vào Đại Việt, phía Mông Cổ đã đưa sứ giả sang để dò la tình hình, sau đó lấy cớ phía vua quan triều Trần bắt sứ mà tiến hành xâm lược. Thực tế cho thấy, Mông Cổ chuẩn bị cho ý đồ thôn tính Đại Việt, trước hết báo động cho các vùng biên giới Tây Nam tập trung binh lực.
- Vương triều Trần sớm cảnh giác trước âm mưu xâm lược của Mông Cổ, từ tháng 8 năm Đinh Tỵ (1257), khi chủ trại Quy Hoá là Hà Khuất trình báo về triều có sứ Mông Nguyên sang, thì ngay tháng 9 đã ban lệnh cho Trần Quốc Tuấn chỉ huy quân thuỷ bộ ra trấn giữ vùng biên giới. Tiếp theo, đến tháng 11 mùa đông năm đó, ban bố lệnh cả nước sắm sửa vũ khí. Khi quân Mông Cổ sang, vua dân Triều Trần đã lập phòng tuyến để ngăn địch và tiến hành một trận đánh tiêu diệt tại vùng Bình Lệ Nguyên.
- Thái độ của vương triều Trần là chủ động tiến công phá vỡ âm mưu xâm lược và kiên quyết phản kích quân giặc. Các vua Trần đều tự thân ra trận, xông pha nơi tuyến đầu, đã tập hợp nhiều tướng lĩnh tài giỏi, gan dạ như Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn, Lê Phụ Trần… kết hợp với sức mạnh tổng hợp của toàn dân từ vùng xuôi, ven biển đến vùng núi cao để giành được chiến thắng.
Cuộc kháng chiến phản kích xâm lược của vương triều Trần đã phá tan âm mưu muốn lấn chiếm lâu dài Đại Việt của Mông Cổ. Thắng lợi to lớn lần đầu chống giặc ngoại xâm khích lệ và cổ vũ quân dân cả nước Đại Việt, tạo một khí thế hừng hực quyết tâm chống trả lại dã tâm muốn đặt ách nô lệ của ngoại bang.
Chú thích
1/ Các sách sử Việt Nam thường phiên âm thành A Truật, nhưng chữ này có hai cách phiên âm là Truậtvà Thuật- Từ Nguyên.
2/ Giản thể tự Nhị thập lục sử,Nguyên sửquyển 209, Liệt truyện 96, Ngoại di 2, An Nam, tr 2932 - 2933, Nxb Nhân dân Cát Lâm, Trung Quốc, trường Xuân, 1995.
3/ Sđd: Trung Quốc lịch sử đại từ điển, Sử học sử,Thượng Hải từ thư xuất bản xã, Thượng Hải 1983, tr 483, theo tin mạng http://zh.wikisource.org.
4/ sđd: Giản thể tự Nhị thập lục sử, Tân Nguyên sửquyển 251, Liệt truyện 148, Ngoại quốc 3, An Nam, tr 3572 – 3573.
5/ Theo http://zh.wikisource.org. sđd : Trung Quốc lịch sử đại từ điển, Sử học sử, tr 447.
6/ Tức là Ngột Lương Hợp Thai chép trong Nguyên sửvà Tân Nguyên sử. Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Sách Thông giám tập lãmchép là Ô Đặc Cáp Lý Đạt. Nxb Giáo dục, T1, H, 1998, tr 483, tên Mông Cổ là Uriyangqadai (1201 - 1272).
7/ Tức là Triệt Triệt Đô chép trong Nguyên sửvà Tân Nguyên sử. Nguyên sửngữ giải: Từ thời Càn Long phiên âm là Tề Tề Khắc Đô (Đồ mới đúng - NHT), xem là Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm: Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ XIII. Nxb KHXH, Nxb QĐND, H, 2003, tr 73.
8/ Nguyên sửchép là Hoài Đô
9/ Tức là A Thuật chép trong Nguyên sửvà Tân Nguyên sử.
10/ Tục tư trị thông giám, Tống kỷquyển 175, niên hiệu Hiến Tông (Mông Cổ), năm thứ 7 (1257).