Giao lưu văn hóa giữa người Kinh và các dân tộc ít người: Đa dạng mà thống nhất
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Từ thời xây dựng quốc gia Âu Lạc, ít ra cũng đã có hai tộc người: Âu Việt và Lạc Việt tham gia thành lập đất nước. Có một số dân tộc ít người là người bản địa, có một số ở nơi khác đến. Quá trình các dân tộc nhập cư vào đất nước ta diễn ra lẻ tẻ, thời điểm khác nhau. Người Môn - Khơ Me, người Tày đã có mặt ở nước ta từ rất sớm; còn người Thái hiện nay thì chuyển cư đến nước ta muộn hơn, trong thiên niên kỷ thứ hai1. Người Dao đến nước ta từ thế kỷ XIII, nhưng cho đến khi Cách mạng tháng Tám (năm 1945) thành công, vẫn có một bộ phận người Dao chuyển cư từ Trung Quốc qua con đường Quảng Ninh để đến định cư ở Tuyên Quang 1.
Trên đất nước ta, trong số 54 dân tộc, có những dân tộc có mối quan hệ cội nguồn, có những dân tộc không có quan hệ cội nguồn. Tuy vậy, sau khi đã có mặt trên đất nước ta, các dân tộc đã xây dựng nên truyền thống tốt đẹp về tính cộng đồng, về ý thức cùng sinh ra trong một bọc trăm trứng (truyền thuyết “Lạc Long Quân - Âu Cơ” của người Kinh), về niềm tin cùng một nguồn cội (truyện “Quả bầu mẹ” của các dân tộc ít người). Ý thức quốc gia và ý thức dân tộc đã được hình thành và củng cố trong những cuộc đấu tranh lâu dài để khai thác thiên nhiên cũng như để bảo vệ Tổ quốc. Từ thời kỳ Bắc thuộc, nhân dân Việt Bắc đã từng cùng nhân dân cả nước liên tục đấu tranh chống ách đô hộ.
Từ thế kỷ X trở đi, trong không khí hào hùng xây dựng quốc gia Đại Việt độc lập tự chủ, các vua nhà Lý, nhà Trần đã có ý thức xây dựng sự gắn bó giữa các dân tộc ít người với chính quyền trung ương ở Thăng Long. Một trong những phương thức để đạt tới mục đích ấy là gả các công chúa cho các tù trưởng miền núi. Thí dụ, vua Lý Nhân Tông gả công chúa Kim Thành cho Châu mục châu Phong Châu là Lê Tông Thuận, gả công chúa Trường Minh cho Châu mục châu Thượng Uy là Hà Thiện Lãm, gả công chúa Khâm Thánh cho Hà Di Khánh - Châu mục châu Vị Long (Vị Long là phần phía bắc tỉnh Tuyên Quang và tỉnh Hà Giang ngày nay). Trong thời kỳ Đại Việt, các đạo quân xâm lược của nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh, nhà Thanh thường bắt đầu cuộc tiến công bằng cách đánh vào Việt Bắc. Nhân dân nơi đây đã đoàn kết chặt chẽ và gắn bó với triều đình trong sự nghiệp bảo vệ làng, bản quê hương, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Nhiều tướng lĩnh trung kiên của quân Đại Việt là người Tày, Nùng, Dao..., trong đó nổi tiếng nhất là Tôn Đản, Vi Thủ An, Thân Cảnh Phúc (đời Lý); Nguyễn Thế Lộc, Nguyễn Lĩnh, Hà Đặc, Hà Chương (đời Trần); Nông Văn Lịch, Lưu Nhân Chú, Bế Khắc Thiệu, Hoàng Đại Huề (đời Lê) 2...
Nhà nước quân chủ thời phong kiến đã có lúc biết tôn trọng phong tục địa phương, tức là đã chú ý đến sắc thái văn hoá riêng của các dân tộc ít người. Về luật pháp, điều 40 của bộ Quốc triều hình luật (bộ luật nhà Lê) quy định: “Những người miền thượng du (tức miền núi, miền đồng bào các dân tộc ít người cư trú) cùng phạm tội với nhau thì theo phong tục xứ ấy mà định tội. Những người thượng du phạm tội với người trung châu (tức người Kinh) thì theo luật mà định tội”. Ông vua cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam là Bảo Đại (1926-1945) cũng chú ý đến tục lệ riêng của các dân tộc ít người. Năm 1936, nhà vua ban hành Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật. Tại điều 3 của dụ 51 được in cùng bộ luật, nhà vua nói rằng: Bộ luật đó chỉ áp dụng đối với người Kinh, còn đối với các dân tộc ít người “thời cứ giữ theo tục lệ các thổ dân ấy” 3.
Người dân các dân tộc ít người và người Kinh không chỉ đoàn kết trong các cuộc chiến tranh giữ nước mà còn gắn bó trong những phong trào nông dân khởi nghĩa chống lại sự hà khắc của triều đình. Năm 1739, Hoàng Công Chất tập hợp nông dân nghèo nổi dậy ở châu thổ Bắc Bộ, sau đó đóng quân ở Lai Châu. Nhờ sự liên kết chặt chẽ với đồng bào các tộc người ít người ở đây, nghĩa quân đã làm chủ cả một vùng rộng lớn (Điện Biên, Sơn La, Hoà Bình...). Trong gần 20 năm, cuộc sống của nhân dân vùng nghĩa quân chiếm đóng khá dễ chịu. Đến cuối thế kỷ XIX, các dân tộc ít người đã có dịp thể hiện tinh thần yêu nước trong công cuộc chống thực dân Pháp xâm lược. Các cuộc đấu tranh yêu nước ở Việt Bắc đã đoàn kết người Kinh và người các dân tộc ít người dưới ngọn cờ của các lãnh tụ nghĩa quân người Kinh như: Hoàng Hoa Thám, Trịnh Văn Cấn, Lương Ngọc Quyến hoặc các lãnh tụ nghĩa quân người dân tộc ít người như: Hoàng Đình Kinh (Tày), Triệu Phúc Sinh (Dao), Ba Den (H’mông)... Trong cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Quang Bích, nhiều thủ lĩnh người Thái ở Tây Bắc và Thanh - Nghệ đã hưởng ứng, vì vậy mà sau 10 năm xâm lược, Pháp mới đặt chân lên được địa bàn này 4.
Trong lịch sử xây dựng đất nước và đấu tranh chống xâm lược, chống lại sự hà khắc của triều đình phong kiến Việt Nam, với số dân đông nhất, trình độ phát triển sớm hơn, người Kinh đã đóng vai trò chủ đạo. Trong quá trình lịch sử lâu dài, người Kinh đã hấp thu được nhiều tinh hoa văn hoá của các dân tộc anh em. Trong tiếng Việt, người ta thấy có nhiều yếu tố của các ngôn ngữ Môn - Khơ Me, Tày - Thái, thậm chí Nam Đảo. Người Kinh đã học hỏi được nhiều điều bổ ích từ hệ thống tưới tiêu của người Thái (mương phai). Trong việc khai khẩn Đồng bằng Nam Bộ, lưu dân người Kinh đã sử dụng một loại công cụ độc đáo là chiếc phảng. Nhờ có loại công cụ này, mỗi nông dân khoẻ hằng năm có thể phát hoang thêm được 2 đến 3 mẫu. Ngay vụ đầu cũng đã có thu hoạch, còn từ năm thứ ba trở đi thì đất đã thuần thục và cho năng suất cao dần lên 5. Người Kinh cũng đã học tập nghề đi biển của người Chăm. Về mặc, “bộ đồ bà ba đen đi với cái khăn rằn” từng là thứ trang phục điển hình của nông dân Nam Bộ, được cải tiến từ bộ áo cài nút giữa và quần hai ống đã được nhân dân Đàng trong dùng từ thời chúa Nguyễn. Thuyết ‘áo bà ba được du nhập từ kiểu áo của người Bà Ba bên Mã Lai’ cũng có thể đúng một phần, bởi lẽ có khả năng người Bà Ba mặc một kiểu áo tương tự và người Kinh đã mượn cái danh xưng ‘Bà Ba’ để gọi kiểu áo của mình mà vốn lâu nay nó chưa có tên gọi riêng. Tuy nhiên, bộ đồ bà ba so với bộ y phục của người Trung Bộ thế kỷ XVI, XVII chỉ là một bước cải tiến mà thôi. Còn cái khăn rằn thì do mượn của người Khơ Me mà có. Nó tỏ ra rất thuận tiện cho vùng ‘trên nắng, dưới nước’ như Nam Bộ. Nắng thì cuốn nó lên đầu, đêm sương lạnh thì cuốn luồn qua cổ xuống tới ngực. Khi tắm sông rồi lên bờ thì dùng nó quấn quanh hông. Lúc đổ mồ hôi thì dùng nó làm khăn lau. Cũng có thể cột lại làm chiếc địu địu con. Khi ngủ đắp lên bụng thay chăn cũng được...” 5.
Dân ca quan họ Bắc Ninh cũng chịu ảnh hưởng của âm nhạc Chăm. Trong truyện dân gian của người Kinh, truyện “Sọ Dừa” vốn có nguồn gốc Chămpa, truyện “Thạch Sanh” có thể có nguồn gốc từ kiểu truyện dũng sỹ diệt đại bàng cứu người đẹp, dũng sỹ chém Chằn, trừ Dạ Dìn cứu người đẹp, một kiểu truyện phổ biến ở các vùng của các dân tộc ít người từ Cao Bằng (phía bắc Tổ quốc) đến Tây Nguyên và cả Nam Bộ 6. Về văn hoá ẩm thực, người Kinh đã tiếp thu cách ăn đồ biển và kỹ thuật làm mắm, chế biến cá của người Chăm, tiếp thu món canh chua của người Khơ Me Nam Bộ.
Còn có thể kể ra vô số những ảnh hưởng của văn hoá các dân tộc ít người đối với văn hoá của dân tộc Kinh.
Bên cạnh quá trình tiếp thu tinh hoa văn hoá các dân tộc ít người, còn có quá trình lan toả văn hoá Kinh đối với văn hoá của các dân tộc ít người. Ngay từ thời phong kiến, đã có một số người thuộc dân tộc ít người đi học và đi thi. Một số đã đỗ đại khoa (tiến sỹ). Trong đời Lê ở Phổ Yên có một người đỗ đại khoa, ở Đồng Hỷ - 3 người, Phú Lương - 1 người, Đại Từ - 1 người, Văn Lãng - 1 người. Điều này đã được sử gia Phan Huy Chú nhắc đến trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, khi ông viết về thừa tuyên Thái Nguyên 2. Khi lên đóng đô ở Cao Bằng (thế kỷ XVIII), triều đình nhà Mạc đã tổ chức đào tạo tầng lớp trí thức địa phương người Tày, người Nùng để sung vào bộ máy quan lại. Một số quan lại, nho sỹ người Kinh chạy theo nhà Mạc lên Cao Bằng lâu dần đã Tày hoá (dân gian gọi là Kinh già hoá Thổ). Tầng lớp trí thức nho học gồm người Kinh đã Tày hoá và người Tày, người Nùng đã truyền bá nho học, chế tác ra chữ Nôm Tày, ghi chép các truyện cổ, truyền thuyết của người Tày, người Nùng, viết và phiên dịch nhiều tác phẩm văn học ra chữ Nôm Tày. Nổi tiếng nhất trong các tầng lớp trí thức người miền núi thời trước là Bế Văn Phùng, Nông Quỳnh Văn, Hoàng Đức Hậu 2. Đó chính là ảnh hưởng của văn hoá Kinh đối với văn hoá các dân tộc ít người trên phương diện văn tự và văn học.
Tiếng Việt và chữ quốc ngữ đang là một phương tiện giao tiếp trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước, và các hoạt động thông tin đại chúng, nghiên cứu khoa học, sáng tác, xuất bản, văn học nghệ thuật. Mặc dù các dân tộc ít người có ngôn ngữ riêng (một số dân tộc đã có văn tự riêng), nhưng họ vẫn coi ngôn ngữ, văn tự người Kinh là ngôn ngữ, văn tự của mình1. GS Tô Ngọc Thanh đã nhận xét, trên Tổ quốc Việt Nam thống nhất, “quá trình quốc gia hoá các giá trị văn hoá tộc người cũng đồng thời là quá trình chọn lọc, tiếp nhận và tộc người hoá tinh hoa văn hoá của các tộc người khác” 7.
Từ những ví dụ đã nêu, có thể thấy một trong những nguyên nhân làm nên sự giàu có, phong phú của văn hoá Kinh chính là việc người Kinh đã biết tiếp thu, học tập tinh hoa văn hoá của các dân tộc anh em. Mặt khác, các dân tộc ít người cũng đã tiếp thu không ít những yếu tố văn hoá của các dân tộc khác và của văn hoá Kinh.
Chính quá trình giao lưu văn hoá giữa các dân tộc trên đất nước ta đã tạo nên sự thống nhất mà đa dạng trong văn hoá vùng và văn hoá tộc người. Đây là đặc điểm nổi bật của văn hoá nước ta. “Thống nhất mà đa dạng là quy luật phát triển của văn hoá Việt Nam . Coi nhẹ sự thống nhất của văn hoá nước ta tất yếu sẽ dẫn đến sự suy yếu sức mạnh tổng hợp của dân tộc” 1.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Nông Quốc Chấn, Huỳnh Khái Vinh đồng chủ biên (2002), Văn hoá các dân tộc Việt Nam thống nhất mà đa dạng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 108, 109, 140, 141, 161.
2 Đinh Gia Khánh, Cù Huy Cận chủ biên (1995), Các vùng văn hoá Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, tr 80, 85, 86.
3 Nguyễn Xuân Kính (2000), Từ luật tục qua hương ước đến luật pháp (in trong tập sách nhiều tác giả do Ngô Đức Thịnh và Phan Đăng Nhật đồng chủ biên: Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam ), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 157.
4 Phan Hữu Dật chủ biên (2001), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 247.
5 Huỳnh Lứa, trong tập sách nhiều tác giả (1992), Văn hoá dân gian người Việt ở Nam Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr 33, 121.
6 Nông Quốc Chấn và Phan Đăng Nhật, trong tập sách nhiều tác giả (1980) Lịch sử văn học Việt Nam , Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr 87.
7 Tô Ngọc Thanh (2002), “Văn hoá Tây Bắc - thành tựu và thách thức”, trong Nguồn sáng dân gian, Hà Nội, số 3, tr 5.
Nguồn: Tạp chí Hoạt động khoa học, 09/2006