Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 17/02/2022 15:37 (GMT+7)

Gần một ngàn nhà khoa học tham gia nghiên cứu khoa học vũ trụ

Việt Nam không phải là quốc gia đi đầu trên thế giới cả về tiềm lực kinh tế lẫn nghiên cứu khoa học công nghệ vũ trụ.

Tuy nhiên chúng ta đã có được những kết quả để làm chủ và duy trì được năng lực nghiên cứu phát triển công nghệ vũ trụ, cũng như đảm bảo điều kiện nhất định để khi tiếp nhận công nghệ mới nhất trên thế giới và vào ứng dụng thực tế, từ đó phát triển được một số sản phẩm của riêng Việt Nam.

tm-img-alt

Đưa công nghệ vũ trụ vào phục vụ đời sống

Nhằm thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ, đưa công nghệ vũ trụ phục vụ thiết thực và có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa và phát triển kinh tế - xã hội bền vững của đất nước, ngày 14/6/2006, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ đến năm 2020” của Việt Nam. Trong chiến lược, Thủ tướng Chính phủ đã giao Viện hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam chủ trì xây dựng, trình duyệt, tổ chức thực hiện chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia về công nghệ vũ trụ (gọi tắt là chương trình khoa học công nghệ vũ trụ).

Chương trình khoa học công nghệ vũ trụ có vai trò rất quan trọng trong chiến lược, đó là thông qua việc xây dựng, triển khai thực hiện các đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học về công nghệ vũ trụ, sẽ tạo ra một đội ngũ cán bộ nghiên cứu có trình độ cao, tạo ra các sản phẩm khoa học công nghệ vũ trụ ngang tầm với khu vực và thế giới, làm tiền đề để thực hiện thành công chiến lược, đưa công nghệ vũ trụ thực sự trở thành công cụ quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh.

Bốn mục tiêu của chương trình giai đoạn 2016 - 2020 được phê duyệt gồm: Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng công nghệ viễn thông, viễn thám, hệ thông tin địa lý và hệ thống vệ tinh định vị toàn cầu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo quốc phòng - an ninh; giám sát tài nguyên thiên nhiên, môi trường, thiên tai và biến đổi khí hậu trên cơ sở khai thác hiệu quả các hạ tầng công nghệ vũ trụ đã được đầu tư và hợp tác quốc tế; Chủ động hội nhập và hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, làm chủ công nghệ thiết kế, chế tạo, lắp ráp và thử nghiệm một số thiết bị, mô đun chính trong các phân hệ của vệ tinh nhỏ quan sát trái đất, công nghệ trạm mặt đất và công nghệ phóng vệ tinh nhỏ lên quỹ đạo thấp, tiếp nhận chuyển giao công nghệ vệ tinh với các nước tiên tiến; Thúc đẩy nghiên cứu cơ bản có chọn lọc về khoa học và công nghệ vũ trụ có tiềm năng ứng dụng và phù hợp với điều kiện của Việt Nam, góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho lĩnh vực khoa học công nghệ vũ trụ, tiếp tục hình thành một số nhóm nghiên cứu mạnh trên cơ sở khai thác thành tựu khoa học công nghệ trên thế giới; Góp phần định hướng nội dung chiến lược quốc gia về công nghệ vũ trụ cho giai đoạn 2020 - 2030 và tầm nhìn đến năm 2040, trong đó chú trọng xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật về công nghệ vũ trụ, thương mại hóa sản phẩm và từng bước hình thành thị trường trong lĩnh vực công nghệ vũ trụ.

Các nội dung chính đã được phê duyệt của chương trình giai đoạn 2016 - 2020 bao gồm 5 điểm: Nghiên cứu ứng dụng công nghệ vũ trụ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh; Phát triển công nghệ vệ tinh nhỏ quan sát trái đất, công nghệ trạm mặt đất và các công nghệ liên quan khác; Nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng liên quan đến khoa học và công nghệ vũ trụ; Nghiên cứu xây dựng chính sách phát triển khoa học và công nghệ vũ trụ; Hỗ trợ chuyển giao công nghệ và kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ vũ trụ vào ứng dụng thực tiễn.

Gần một ngàn nhà khoa học tham gia nghiên cứu

PGS.TS. Doãn Minh Chung, chủ nhiệm chương trình khoa học công nghệ vũ trụ giai đoạn 2016 – 2020 cho biết, sau 5 năm triển khai, chương trình đã bám sát với các mục tiêu, nội dung và sản phẩm dự kiến mà Bộ khoa học và công nghệ đề ra. Tổng số đề tài thực hiện trong chương trình là 38 đề tài khoa học công nghệ, được chia theo 3 hướng, cụ thể: 3 đề tài hướng nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng liên quan đến khoa học và công nghệ vũ trụ (8% số lượng, 6% kinh phí); 8 đề tài hướng phát triển công nghệ vệ tinh nhỏ quan sát trái đất, công nghệ trạm mặt đất và các công nghệ liên quan khác (21% số lượng, 37% kinh phí); 26 đề tài hướng nghiên cứu ứng dụng công nghệ vũ trụ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh (68% số lượng, 55% kinh phí). Ngoài ra, có 1 đề tài pháp lý xây dựng dự thảo chiến lược vũ trụ đến năm 2030 (3% số lượng, 1% kinh phí).

Có 25 đơn vị tham gia tổ chức chủ trì đến từ khối các viện nghiên cứu, trường đại học, các bộ, ngành và quốc phòng – an ninh. Tổng cộng có hơn 900 cán bộ khoa học tham gia trong đó, giáo sư, phó giáo sư chiếm 4%, tiến sĩ 40%, thạc sĩ 50%, kỹ sư, cử nhân chiếm 6%. Số lượng cán bộ được đào tạo của chương trình là 36 tiến sĩ, 75 thạc sĩ và9 kỹ sư/cử nhân.

Sau 5 năm thực hiện chương trình, các sản phẩm tiêu biểu đạt được theo 3 hướng như sau:

Sản phẩm tiêu biểu đạt được theo hướng nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng liên quan đến khoa học và công nghệ vũ trụ, gồm: Chế phẩm bổ sung dinh dưỡng nguồn gốc thiên nhiên (thực phẩm chức năng), nhằm phòng ngừa và khắc phục các yếu tố bất lợi đối với cơ thể sống trong môi trường vũ trụ; mô hình tính toán năng lượng bức xạ mặt trời sử dụng dữ liệu vệ tinh địa tĩnh với mô hình khí hậu trong điều kiện Việt Nam; hệ thống mô phỏng trạng thái vi trọng lực 3D clinostat.

Sản phẩm tiêu biểu đạt được theo hướng phát triển công nghệ vệ tinh nhỏ quan sát trái đất, công nghệ trạm mặt đất và các công nghệ liên quan khác: Tên lửa nghiên cứu (Sounding Rocket) TV-02 bao gồm hệ thống động cơ, thiết bị khí động thân vỏ, thiết bị cắt tầng, thiết bị phóng tên lửa, phần mềm điều khiển, hệ thống thiết bị trên khoang (payload) và hệ thống thiết bị khoa học đo đạc thông số khí quyển tầng cao; hệ thống anten bám kiểu Hexapod cho vệ tinh quan sát trái đất; hệ thống anten bám kiểu Hexapod bao gồm 1 anten parabol và 1 anten mảng phản xạ được điều khiển, có khả năng thu/phát tín hiệu để điều khiển vệ tinh quan sát trái đất; phân hệ cao tần cho vệ tinh micro; hệ thống thông tin di động chuyên dụng chuyển tiếp vệ tinh phục vụ vùng sâu vùng xa, biển đảo và các trường hợp khẩn cấp; bộ thu phát và xử lý tín hiệu trong hệ thống thông tin vệ tinh sử dụng công nghệ truyền thông quang vô tuyến FSO; vệ tinh siêu nhỏ cỡ nano... Sản phẩm của hướng này còn có một khinh khí cầu mang theo hệ thống thiết bị đo đạc, được thả lên tầng bình lưu ở độ cao từ 20 - 34 km trên mặt nước biển, có khả năng sử dụng nhiều lần.

Sản phẩm tiêu biểu đạt được theo hướng ứng dụng công nghệ vũ trụ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng – an ninh, trong đó có 24 bộ số liệu và cơ sở dữ liệu các khu vực nghiên cứu được xây dựng và vận hành trên cơ sở các dữ liệu vệ tinh độ phân giải cao, đặc biệt là dữ liệu vệ tinh VNREDSat-1 thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, phục vụ quốc phòng – an ninh, phục vụ quản lý ngành nông nghiệp; 17 mô hình và quy trình ứng dụng khoa học và công nghệ vũ trụ có hiệu quả được đề xuất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh, nghiên cứu khoa học và đào tạo; 13 hệ thống WebGIS sử dụng trong quản lý và giám sát tài nguyên, môi trường, thiên tai, chất lượng nước, lớp phủ, rừng, mức độ ô nhiễm không khí… trên cơ sở ứng dụng dữ liệu ảnh vệ tinh và công nghệ viễn thám.

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Bùi Thế Duy đã đánh giá cao về các kết quả đạt được của chương trình, đặc biệt các liên quan đến ứng dụng công nghệ vũ trụ vào trong cuộc sống được tập trung nhiều về sử dụng ảnh vệ tinh, viễn thám, cũng như tập trung vào các kết quả phát triển vệ tinh nhỏ quan sát trái đất từ việc thiết kế vệ tinh nhỏ đến việc thiết kế các trạm thu phát... Các kết quả đạt được cho thấy các nỗ lực nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam.

Xem Thêm

Yên Bái: Nghiên cứu di tích Lịch sử - Văn hóa vùng hồ Thác Bà
Ngày 29/10, tại huyện Lục Yên, Liên hiệp hội tỉnh phối hợp với Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch, UBND huyện Lục Yên và Hội Khoa học Lịch sử tỉnh đã tổ chức hội thảo Nghiên cứu di tích Lịch sử - Văn hóa vùng hồ Thác Bà phục vụ nhiệm vụ bảo tồn, phát huy giá trị và phát triển khu du lịch quốc gia hồ Thác Bà.
Hướng tới một ngành chăn nuôi an toàn, hiệu quả và bền vững
Ngày 18/10 tại thành phố Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam phối hợp với Hội Chăn nuôi Việt Nam và Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề: Áp dụng quy trình chăn nuôi an toàn sinh học và tuần hoàn nâng cao hiệu quả sản suất trong chăn nuôi trang trại nhỏ và hộ gia đình.

Tin mới

Quảng Ngãi: Tuyên truyền chủ trương của Đảng cho trí thức
Chiều ngày 19/11, Liên hiệp Hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức hội nghị thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Tình hình xung đột Israel-Hamas, Hezbollah; xung đột Nga-Ukraine. Tác động và xử lý của Việt Nam”.
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp giảm thiểu tác động của đốt mở tại Việt Nam
Mặc dù 68% số người được khảo sát có ý thức về môi trường, 80% có ý thức về sức khỏe, nhưng vẫn thể hiện sẽ tiếp tục “đốt đồng” (đốt lộ thiên/đốt mở trong nông nghiệp), với lý do chủ yếu “vì tin có tác dụng tốt, nhanh, rẻ”. Do vậy, cần có giải pháp truyền thông phù hợp để thay đổi thói quen này.
Phát huy vai trò, trách nhiệm của trí thức KH&CN & LHHVN trong hoạt động của MTTQVN các cấp
Nhằm thảo luận, đề xuất các giải pháp đẩy mạnh và phát huy sức mạnh trí tuệ của đội ngũ trí thức trong hệ thống LHHVN tham gia vào các hoạt động của MTTQVN, nhất là trong hoạt động TV,PB&GĐXH, LHHVN tổ chức Hội thảo Giải pháp phát huy vai trò, trách nhiệm của trí thức trong hoạt động của MTTQVN các cấp. Hội thảo được tổ chức vào chiều ngày 19/11, tại trụ sở LHHVN.
Tôn vinh và tri ân một nghề cao quý nhất
Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 hằng năm là dịp để toàn xã hội tôn vinh và tri ân những người thầy, người cô đã tận tụy cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Đây không chỉ là ngày lễ ý nghĩa trong ngành giáo dục mà còn mang tính nhân văn sâu sắc, gắn kết tinh thần “tôn sư trọng đạo” - truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Mạng lưới cơ sở giáo dục đại học phải đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao
Việc quy hoạch lại hệ thống cơ sở giáo dục đại học và sư phạm giúp các cơ sở này nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu và khả năng thích ứng với những thay đổi của xã hội và nền kinh tế, cần tính toán nhu cầu đặc biệt quan trọng của đất nước về nguồn nhân lực chất lượng cao như kỹ sư bán dẫn, kỹ sư vận hành đường sắt tốc độ cao…
Tập huấn nâng cao kiến thức về chuyển đổi số cho hội viên tại tỉnh Lào Cai
Trong hai ngày 15 – 16/11, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam phối hợp với Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Lào Cai và Trường Cao đẳng Lào Cai tổ chức Hội nghị tập huấn “Nâng cao kiến thức về chuyển đổi số” tại Tp. Lào Cai. Hội nghị đã thu hút sự tham dự của hơn 100 đại biểu, học viên là hội viên của Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Lào Cai.
Đề xuất giải pháp phát triển công nghiệp SX cây giống chất lượng phục vụ phát triển cây ăn quả khu vực miền núi phía Bắc
Ngày 12/11, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam phối hợp với Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Sơn La và Hội Giống cây trồng Việt Nam tổ chức Hội thảo “Phát triển công nghiệp sản xuất cây giống chất lượng phục vụ phát triển cây ăn quả khu vực miền núi phía Bắc” tại thị trấn Nông trường Mộc Châu, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.